20
21
của quan nhà Tống, Trịnh Tủng: “Họ Lý từ sau Công
Uẩn truyền đến thời Hạo Sảm ngày nay, thảy tám đời.
Tên các đời là Nhật, là Càn, là Dương, là Thiên, là Long
đều có ý lấn vượt bề trên. Triều đình coi nước ấy xa nơi
góc bể, không thèm lần lữa so đo”
(1)
; cũng có khi lại trở
thành một trong những cái cớ để san bằng nước Việt,
mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược của nhà Minh trong
những năm đầu thế kỷ XV. Việc “không tuân theo
chính sóc của triều đình (lịch nhà Minh), tiếm vượt đổi
quốc hiệu thành Đại Ngu, xưng láo tôn hiệu, đổi niên
hiệu Nguyên Thánh”
(2)
, một trong hai mươi tội ác nhà
Minh gán cho cha con họ Hồ, trên thực tế cũng chính
là quán lệ của triều đình Đại Việt. Nhưng sau bao công
sức đổ vào công cuộc giáo hóa hòng răn dạy An Nam
phải ngoan ngoãn nghe lời, ý đồ của nhà Minh vẫn
hoàn toàn sụp đổ, bởi với chiến thắng của Lê Lợi hai
mươi năm sau, “đất cát lại là đất cát An Nam, nhân
dân lại là nhân dân An Nam, phong tục áo mũ lại được đúng như xưa,
nền nếp mối giềng lại được sáng như cũ”
(3)
, đặc biệt, theo Lý Văn Phượng,
Lê Lợi đã “không nghĩ đến việc thành thật hối lỗi, bề ngoài thần phục,
nhưng bên trong lại rắp tâm lấn vượt, tiếm hiệu, cải nguyên để đối chọi
ngang hàng với Trung Quốc.”
(4)
Chính vì vậy, cũng dễ hiểu khi vua chúa Việt Nam luôn muốn mình
ngang hàng, thậm chí vượt trội so với các vị vua tài đức của Trung Hoa,
mà không phải vua chúa của một quốc gia nào khác. Sự so sánh này
khi là sự so bì về tài năng như Lý Chiêu Hoàng khen chồng, Trần Cảnh:
“Văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng,
có tư chất thánh thần văn võ, dù Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng
1. (Trung) Trịnh Khai Dương tạp trứ - Q.6 - An Nam kỷ lược. Tr.45. Nguyên văn: 李氏自公蘊而後歷傳至今
昊旵凡八世,名字曰日曰乾曰陽曰天曰龍皆有僭上之意。朝廷以其僻在海隅,不復與較也
2. (Trung) Minh thực lục - Thái Tông thực lục - Q.60 - Mục ngày Ất Mùi tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ tư.
Nguyên văn: 不奉朝廷正朔,僭改國名大虞,妄稱尊號,紀元元聖,罪三也 Toàn thư chép niên
hiệu thời Hồ Quý Ly là Thánh Nguyên
3. (Việt) Lam Sơn thực lục - Phụ lục lời bình. Nguyên văn: 土地復安南土地,人民復安南人民。凡俗衣
冠得以復正,綱疇統紀得以復明矣
4. (Trung) Việt kiệu thư - Tự. Tr.664. Nguyên văn: 為利者不思輸誠悔罪,乃外臣服衷懷不軌, 僭號改元
以與中國抗衡
ách thống trị của Trung Quốc
(1)
. Bất kể quan niệm của người phương Bắc
cho rằng, trời chỉ có một thiên tử, thiên hạ chỉ có một hoàng đế, song
không ít thủ lĩnh nước Việt mỗi khi giành được độc lập, giành quyền
làm chủ cõi đất phương Nam đều xưng đế, dù khi chạm trán thiên triều
vẫn nhún mình xưng là bề tôi: Lý Bí xưng đế năm 544, Mai Thúc Loan
xưng đế năm 713, và năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tự xưng Đại Thắng Minh
hoàng đế… Phan Huy Chú sở dĩ coi nước Việt từ thời Đinh Lê mở nước
đối chọi với Trung Hoa
(2)
, bởi tính từ thời điểm này trở đi, vị thế của một
đất nước độc lập đã được khẳng định, tư tưởng bá chủ trời Nam đã hết
sức sáng rõ như chính lời chúc của Nam Việt Vương Đinh Liễn nhắn gửi
trên cột kinh tràng: “Chúc Đại Thắng Minh hoàng đế mãi làm bá chủ trời
Nam, giữ yên ngôi báu”, “mãi trấn vững trời Nam, thứ là khuông phù đế
nghiệp.”
(3)
Việc ấy cũng như lời nhận xét của quan Trung Quốc thời Minh
là Lý Văn Phượng: “Nhật Tôn tự làm đế nước ấy […] lấy quốc hiệu Đại
Việt. Từ ấy về sau, con cháu họ Lý cho tới họ Trần, Lê, Mạc đều giẫm theo
vết cũ, tiếm xưng đế hiệu.”
(4)
Việc vua nước Việt xưng đế,
đồng nghĩa với việc ông vua Việt
được hưởng mọi đặc quyền, nghi lễ
dành cho thiên tử, không kém vua
Trung Hoa. Thái độ của triều đình
phương Bắc đối với việc lấn vượt,
“không kiêng dè”
(5)
của triều đình
Đại Việt là nhiều khi đành phải
khuất mắt trông coi như ghi nhận
1. Sự “làm loạn” này được không ít quan lại phương Bắc “đưa tin” về thiên triều như Thái thú Giao Chỉ, Hợp
Phố thời Ngô là Tiết Tông (?-243) dâng sớ viết: “(Giao Chỉ) núi rừng hiểm trở, dễ làm loạn, khó trị” (An
Nam chí lược. Tr.118. Nguyên văn: 險阻山林,易以爲亂,難使從); Thứ sử Giao Châu thời Tây Tấn là Đào
Hoàng cũng viết: “Dân ở châu này thích gây họa loạn. (An Nam chí lược. Tr.121. Nguyên văn: 此州之民好
為禍亂
); đến tận thời Ngũ Đại, vua Nam Hán là Lưu Nghiễm vẫn phàn nàn: “Dân Giao Chỉ ưa làm loạn”.
(An Nam chí lược. Tr.279. Nguyên văn: 交趾民好乱)
2. (Việt) Loại chí - Văn tịch chí - Tự. Nguyên văn: 自丁黎肇國,抗衡中華
3. Văn khắc Hán Nôm. Tập 1. Tr.64, 66. Nguyên văn: 祝大勝明王皇帝永霸天南,恆安寳位[…]先祝大勝
明王皇帝永鎮天南,次為匡佐帝圖
4. (Trung) Việt kiệu thư - Tổng tự - Sử 162. Tr.666. Nguyên văn: 日尊自帝其國…自是以後,其子孫及
陳、黎、莫氏皆踵其故事,僭帝號焉
5. Từ dùng của Chử Nhân Hoạch, người thời Thanh. (Trung) Kiên hồ dư tập - Q.1 - An Nam thí lục. Nguyên
văn: 安南國去中國數千里,雖名秉聲教,實自帝其國,建元剏制無忌也 (Nước An Nam cách Trung
Quốc mấy ngàn dặm, mang tiếng giữ gìn thanh giáo, nhưng kỳ thực tự làm hoàng đế một nước. Đặt niên
hiệu, định quy chế đều không kiêng dè)
Rồng thời Lý khai quật tại
hoàng thành Thăng Long.
Giá đỡ chậu rửa thời
Nguyễn (BAVH).