256
257
kính”
(1)
. Cha Marini ở Đàng Ngoài vào giai đoạn 1646 - 1658 cho biết:
“Họ buông xõa tóc xuống vai để thể hiện phẩm giá và sự kính trọng.
Khi xuất hiện trước mặt nhà vua hoặc người đức cao vọng trọng, nếu
đang buộc tóc thì họ phải nhanh chóng thả tóc ra. Nếu không, họ sẽ bị
quan cắt tóc”
(2)
. Thanh triều văn hiến thông khảo cũng ghi nhận: “Yết
kiến bậc tôn quý thì quỳ gối lạy ba lạy. Ngẫu nhiên gặp ắt buông nón
xõa tóc, không làm như vậy là bất kính.”
(3)
1. Nguồn tư liệu thư tịch phương Tây với tiến trình lịch sử Thăng Long Hà Nội. Tr.216
2. Dẫn theo Những lữ khách Ý trong hành trình khám phá Việt Nam. Tr.63
3. (Trung) Thanh triều văn hiến thông khảo - Q.296 - Tứ duệ tứ. Tr. 7450. Nguyên văn: 謁尊貴跪膝三拜,
偶相見必脫笠披髮,非是則為不敬
tức giận trả lời: “Bọn ta đầu có thể chặt, chứ
tóc không thể cạo, da có thể lột, chứ y phục
không thể thay!”
(1)
Đến năm Gia Long thứ 3
(năm 1804), Lê Quýnh được thả về nước, sau
đó thường xõa tóc, mặc áo cừu, du ngoạn
ở chùa Đại Đồng, Hải Dương. Tác giả Vân
nang tiểu sử ca ngợi, mười mấy năm trời ở
Trung Quốc mênh mông, xõa tóc rủ áo dài
duy chỉ có một mình ông mà thôi
(2)
. Điều
đó chứng tỏ, so với Đàng Ngoài, tục cạo tóc
được đón nhận và lưu hành rộng rãi hơn ở
vùng Đàng Trong, trước khi diễn ra cuộc cải
cách về đầu tóc trang phục thời chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Bên cạnh đó, với riêng kiểu tóc của phụ nữ, Phạm Đình Hổ còn
cho biết: “Phụ nữ nước ta
(cuối Lê đầu Nguyễn)
chỉ dùng khăn là giấu tóc,
gặp bậc tôn trưởng thì xõa tóc để tỏ lòng tôn kính”
(3)
. Dựa vào ghi nhận
của Phạm Đình Hổ, đối chiếu với pho tượng thị nữ chùa Dâu (Bắc
Ninh), có thể thấy vào cuối thời Lê, tục dùng lụa bọc tóc vấn quanh
đầu đã định hình và phổ
biến trong một bộ phận
phụ nữ Việt. Riêng việc
xõa tóc để tỏ lòng tôn
kính, Jerome Richard
năm 1778 cũng ghi nhận:
“Nam giới và phụ nữ
thường búi tóc cao và gắn
vào đó một cái nơ phía
sau đầu. Nhưng khi họ
xuất hiện trước bề trên,
họ lại để xoã tóc tỏ ý tôn
1. (Việt) Hoàng Lê nhất thống chí – Đệ thập tam hồi. Nguyên văn: 我輩頭可斷,發不可雉,皮可削,服
不可易也
Mục tháng 4 năm 1789 trong Cương mục cũng có ghi chép tương tự.
2. (Việt) Vân nang tiểu sử - Trường phái hầu. Nguyên văn: 嘉隆三年,清皇許公奉出帝襯回國,公全
髮以歸寧。後公常於本縣大同寺遊玩,披裘散髮[…]雲史氏曰:遂使十數年間,茫茫中朝而散髮垂
衣,惟公一人而已
3. (Việt) Vũ trung tùy bút – Quyển thượng – Quan lễ. Nguyên văn: 婦人古有冠髮,我國只用羅巾斂髮,
其見尊長則散垂為敬
Tượng thị nữ chùa Dâu (Bắc Ninh).
Chân dung Quốc Uy công
Nguyễn Phúc Thuần.
Trang phục của vũ công thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn.