84
85
triều đại phong kiến Việt Nam, ngoại trừ
triều Nguyễn.
Diện mạo giáp Trụ từ thời Đinh,
Lê trở về trước không có hiện vật làm
chứng. giáp Trụ thời Lý - Trần, xét ở một
chừng mực nhất định, có thể tham khảo
từ pho tượng Kim Cương chùa Long Đọi
và tượng tướng lĩnh khai quật tại di tích
Bảo Tháp, xã Thắng Lợi, huyện Vân Đồn,
Quảng Ninh. Bộ giáp phục thể hiện trên
hai pho tượng này tuy không hoàn toàn
đồng nhất, song đều có sự kế thừa, mô
phỏng từ bộ giáp Minh Quang 明光鎧
甲
của nhà Đường với đặc trưng là hai
tấm hộ tâm hình tròn trước ngực và hai
miếng trang sức hình đầu hổ gắn hai bên vai. Cần lưu ý thêm rằng, năm
1009
(1)
và năm 1014
(2)
, vua Lê Long Đĩnh và vua Lý Thái Tổ đã chủ động
“xin” các bộ giáp Trụ vàng của nhà Tống, và được vua Tống chấp thuận.
2. Tứ Phương Bình Đính 四方平頂帽
Ngoài trang phục giáp Trụ dành cho tướng
lĩnh và một số đội quân đặc biệt, mùa xuân năm
974, vua Đinh Tiên Hoàng định ra Thập đạo
quân, lệnh cho binh lính các đạo đều đội mũ Tứ
Phương Bình Đính
(3)
. Loại mũ này được Toàn
thư mô tả là “làm bằng da, đỉnh mũ phẳng, bốn
bên khâu giáp lại, trên hẹp dưới rộng, quy chế
này đến đời bản triều
(Hậu Lê)
khởi nghĩa vẫn còn
dùng, đời sau cũng noi theo.”
(4)
Như vậy chiếc
mũ Tứ Phương Bình Đính đã xuất hiện từ thời
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 求甲胄金裝,宋帝從之. (Trung) An Nam chí lược – Lê thị thế gia. Nguyên
văn: 表求甲胄金具裝,從之. (Trung) Tống sử - Q.488 – Liệt truyện – Đệ 247 – Ngoại quốc tứ - Giao Chỉ
Đại Lý. Nguyên văn: 表求甲胄金具裝,詔從其請.
2. (Trung) An Nam chí lược - Lý thị thế gia và Tống hội yếu tập cảo - Phiên di nhất - Giao Chỉ. Mục ngày 17
tháng 7 năm thứ 7 Đại Trung Tường Phù (1015) đều chép: 公蘊仍求賜介冑及大藏經,從之
3. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 春二月定十道軍[…]各戴四方平頂帽
4. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn:其帽以皮為之,平頂,四邊夾縫,上狹下寬,其制至今朝起義猶存,
後代因之
Đinh, được duy trì sử dụng đến cuối thời Hậu Lê với tư cách là một loại
mũ quân trang.
Vào thời Lý, Toàn thư chỉ nhắc tới bộ trang phục giáp Trụ, không
đả động tới chiếc mũ Tứ Phương Bình Đính. Song vì loại mũ này đến
thời Lê Lợi khởi nghĩa vẫn được sử dụng làm quân trang, chứng tỏ trải
qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Tứ Phương Bình Đính vẫn được kế thừa,
áp dụng cho một bộ phận binh lính của triều đình Đại Việt.
Đám ma của một quý tộc Đàng Ngoài (S. Baron,
1683. Dẫn theo Tư liệu các công ty Đông Ấn
và Anh về Kẻ Chợ - Đàng Ngoài thế kỷ XVIII);
Binh lính tập võ trên thạp gốm thời Trần (Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam. Ảnh: TQĐ).
3. Cởi trần đóng khố
Ngoài trang phục giáp Trụ, Tứ Phương Bình Đính, binh lính Đại
Việt đến cuối thời Hậu Lê vẫn lưu giữ tục cởi trần đóng khố cổ xưa của
đàn ông giao Chỉ. Chúng ta có thể thấy lối trang phục giản tiện này qua
hình ảnh người lính diễn tập võ nghệ thể hiện trên thạp gốm thời Trần,
qua bức họa người An Nam trong Tam tài đồ hội
(1)
thời Minh, quân giao
Chỉ vẽ năm 1590 trong Boxer Codex v.v. Đặc biệt, bức họa Đám ma của
một quý tộc Đàng Ngoài và Đội rước kiệu vua Lê do S. Baron vẽ khoảng
những năm 1683 thể hiện những người đàn ông rước quan tài và phu
1. Vương Kỳ, tác giả của Tam tài đồ hội, có thiên kiến không tốt đẹp về người Việt. Tuy nhiên, gạt đi những
lời lẽ phỉ báng, có thể thấy những bức họa trong Tam tài đồ hội vẫn có giá trị tham khảo nhất định. Đại Việt
sử ký tục biên cho biết chúa Trịnh Giang sai tể thần xét duyệt sách Tam tài đồ hội để bàn định ra lễ nhạc
(Tr.135). Phủ biên tạp lục cho biết chúa Nguyễn Phúc Khoát hạ lệnh tham khảo Tam tài đồ hội để đặt ra trang
phục cho Đàng Trong (Tr.334).
Tượng Kim Cương thời Lý.
1. (BTMTVN); 2. (Điêu khắc cổ Việt
Nam); 3. (Hoa văn Việt Nam).
Mũ Tứ Phương Bình Định
của nho sinh thời Minh
(Trung Quốc phục trang sử).