86
87
khiêng kiệu vua vẫn cởi trần đóng
khố, chứng tỏ theo quan niệm của
người Việt xưa kia, cởi trần đóng khố
được coi là việc hết sức bình thường,
dung dị, được sử dụng ngay cả trong
những trường hợp tưởng như cần
phải lịch sự, trang nghiêm nhất. Chỉ
riêng nhà Nguyễn về sau mới tỏ thái
độ khinh bỉ, cho rằng lối y phục cố
cựu của Bắc Hà quê kệch, đồng thời
ra lệnh nghiêm cấm tục đóng khố.
Bên cạnh đó, qua những nét vẽ
thô sơ trên thạp gốm hoa nâu thời
Trần, chúng ta vẫn có thể nhận ra
hình rồng cuộn xăm trên đùi những người lính Đại Việt. Toàn thư chép:
“Buổi đầu dựng nước, quân sĩ đều xăm hoa văn hình rồng ở bụng, ở lưng
và hai vế đùi.”
(1)
Cũng có trường hợp hình rồng được xăm ở ngực, như
chính Toàn thư ghi nhận: “Người Tống thấy trong bè đảng ấy có tên họ
Dương, ngực hắn xăm hình rồng đen, và bọn thủ lĩnh ở châu Bồ năm
người, biết là người nước Việt ta, đều trả về.”
(2)
Chu Khứ Phi miêu tả hình
xăm trên người thời Lý như hình dạng trống đồng
(3)
, còn sứ thần nhà
Nguyên Trần Cương Trung miêu tả hình xăm của quân dân thời Trần
là “những hình móc câu nối liền gấp khúc, như hình dạng lư đỉnh bằng
đồng thời xưa.”
(4)
Như vậy, hình xăm mà Chu Khứ Phi và Trần Cương
Trung miêu tả nhiều khả năng chính là hoa văn rồng ổ cuộn tròn đặc
trưng của thời kỳ này. Cần nói thêm rằng, vào thời Lý, việc xăm hình
rồng lên cơ thể từng bị triều đình cấm áp dụng đối với thân phận nô lệ
và đày tớ, như đạo lệnh cuối năm 1118 “cấm gia nô xăm hình rồng lên
người”, đạo luật ban hành vào tháng 6 năm 1157 quy định “gia nô của
các vương hầu không được xăm hình rồng ở ngực”
(5)
v.v. Vào thời Trần,
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 國初軍士皆渾刺龍文於腹背及兩髀
2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 宋人見其黨中有楊於者,胷刺黑龍,及蒲州首領五人,知是我越人,
皆還之
3. (Trung) Lĩnh ngoại đại đáp. Nguyên văn: 其文身如銅鼓款識。
4. (Trung) Sứ Giao thi tập. Nguyên văn: 人皆文身為鈎連屈之文如古銅爐鼎欵識,又有涅字于胸,曰義
以捐軀,形于報國。雖酋子姪亦然
5. (Việt) Đại Việt sử lược. Nguyên văn: 禁家奴不得身上刺龍;諸王侯家奴不得刺龍形於胷
Marco Polo ghi nhận, tại giao Chỉ, “thông thường
cả đàn ông lẫn phụ nữ đều vẽ trên người nhiều hình
thù như sư tử, rồng, chim chóc, vân vân, và các hình
đó được vẽ bằng kim để tránh bị phai mất [...] họ cho
rằng trên người càng nhiều hình xăm thì càng đẹp và
ra dáng quý tộc”
(1)
. Tuy nhiên, từ năm 1323 thời vua
Trần Minh Tông trở đi, “triều đình tuyển quân lại lấy
người béo trắng làm hạng trên, vậy nên từ đó quân sĩ
không còn tiếp tục xăm mình nữa.”
(2)
Ngoài những hình rồng cuộn xăm trên ngực,
bụng và đùi, Trần Cương Trung còn miêu tả có kẻ
trổ vào ngực mấy chữ 義以捐軀,形于報國 (“Nghĩa
dĩ quyên khu, hình vu báo quốc” tức “vì nghĩa quên
mình, tỏ lòng báo quốc”). Ngay con em của vua nước
này cũng như vậy. Riêng binh lính thời Lý, trên trán
đều xăm ba chữ 天子軍 (Thiên tử quân)
(3)
như binh lính thời Tiền Lê
(4)
.
Theo ghi chép của Lĩnh ngoại đại đáp thì ba chữ này được xăm theo
chiều ngang
(5)
.
IV. TRANg PHỤC DÂN gIAN
1. Y phục
Trở lại thời điểm cách nay 1000 năm, quốc thổ Đại Việt nói chung,
kinh thành Thăng Long nói riêng là nơi cư trú của nhiều tộc người, cùng
cơ man nô lệ, tù binh nước ngoài. Ngay từ năm 862, An Nam Kinh lược sứ
Phàn Xước ghi nhận: “Bộ lạc Mang man […] ở nhà lầu, không có thành
quách, sơn răng, đều mặc quần vải xanh, dùng cật mây quấn quanh eo,
vải sơn đỏ quấn búi tóc, buông phần thừa ra phía sau làm trang sức. Đàn
bà khoác áo sa la ngũ sắc. Chim công làm tổ trên cây nhà họ. Voi to như
con trâu. Tục người thổ nuôi voi để cày ruộng, đốt cả phân của nó […]
Ngày 21 tháng 12 năm Hàm Thông thứ 3
(tức 862)
, cũng có tộc Mang man
1. Vạn dặm của Marco Polo. Dẫn theo Những lữ khách Ý trong hành trình khám phá Việt Nam. Tr.20
2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 時蒐簡諸軍以肥晢晢白者為上。故軍士不復文刺自此始
3. (Việt) Toàn thư. Mục tháng 8 mùa Thu năm 1059. Nguyên văn: 定軍號曰御龍、武勝、龍翼、神電、
俸聖、寳勝、雄畧、萬捷等號,皆分左右,額並黥天子軍三字
4. (Trung) Tống Sử. Giao Chỉ truyện. Tr.14061. Nguyên văn: 悉黥其額曰天子軍
5. (Trung) Lĩnh ngoại đại đáp. Nguyên văn: 其軍人橫刺字於額曰天子兵. “Quân nhân đều xăm ngang lên
trán ba chữ Thiên tử binh.” Ở đây Chu Khứ Phi đã chép lầm chữ Binh.
Lính Giao Chỉ vẽ năm 1590 trong Boxer
Codex và lính cầm cờ dắt ngựa thời Lê. (Bảo
tàng Lịch sử Việt Nam).
Tượng đền Đô
(tóc ngắn).