94
95
viết: “Thời Thái Tông Văn hoàng đế, bên trong sửa sang, bên ngoài đánh
dẹp, những kẻ mặc xiêm cỏ, búi tóc chuy kế cũng trèo núi vượt biển tới
chầu, muôn nơi mến đức, tám cõi phục uy”
(1)
. Chỉ đến thời Nguyễn, búi
tóc chuy kế mới được thống nhất áp dụng cho nam giới trong toàn quốc.
Đối với kiểu tóc của vua quan nhà Lý, Chu Khứ Phi cho biết vua nhà
Lý vào ngày thường không phải thiết triều cũng búi tóc chuy kế, chỉ khác
là cài thêm trâm vàng. Toàn thư ghi nhận việc vua Lý Huệ Tông phát
điên, có khi tự xưng là thiên tướng giáng trần, cắm cây cờ nhỏ lên búi
tóc
(2)
. Dựa vào cách nói của Chu Khứ Phi, có lẽ trong những buổi thiết
triều, đại lễ, vua quan nhà Lý không búi tóc chuy kế như ngày thường. Có
thể họ búi một búi tóc ở đỉnh đầu như vua quan nhà Tống, cũng có thể
buông xõa tóc như vua quan nhà Lê?
Ngoài ra, Chu Khứ Phi còn miêu tả người Việt“lấy cao thơm chuốt
tóc như sơn, bọc khăn the đen, đỉnh tròn và nhỏ, từ trán trở lên, nếp gấp
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 太宗文皇帝内修外攘,裳卉髻椎梯山航海萬流仰德,八極傾風
2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 春三月,帝漸發狂,或稱天將降,即持干楯,揷小旗於髻上 (Năm
1217)
nhỏ như may lên đến tận chóp [...] Chân đi giày tất, dạo chơi phố phường,
trông không khác người nước ta, song nhìn khăn của họ thì có thể nhận
ra.”
(1)
Qua miêu tả trên, có thể thấy khăn bọc tóc của người thời Lý là
một dạng khăn vấn. Khăn này được vấn kín đỉnh đầu, tạo nếp gấp ở trán
dạng chữ Nhất 一, riêng phần chóp được xử lý thành dạng khum tròn.
Đây không phải lối vấn khăn to bản, cồng kềnh như người Đàng Trong
sau năm 1744, cũng không hoàn toàn đồng nhất với kiểu vấn để lộ đỉnh
đầu, chỉ vấn quanh trán và búi tóc phổ biến của nam giới thời Nguyễn.
Cần lưu ý rằng, chỉ từ sau năm 1744, người Việt Đàng Trong mới
bắt đầu búi tóc, vấn khăn để phân biệt với người nhà Lê miền Bắc, theo
chính sách của chúa Nguyễn Phúc Khoát.
Dã sử lược biên Đại Việt quốc Nguyễn triều
thực lục ghi nhận: “(Năm 1744) Chúa bèn
thay y phục, đổi phong tục, cùng dân đổi
mới, bắt đầu hạ lệnh cho nam nữ sĩ thứ
trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần,
vấn khăn.”
(2)
Tuy nhiên đến năm 1792, chỉ
có một số người Đàng Trong vấn khăn, đặc
biệt là lính đánh bộ. John Barrow trong Một
chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 -
1793) cho biết: “Mái tóc đen dài của họ đôi
khi được quấn thành búi cố định trên đỉnh
đầu, đôi khi được buông lỏng thành những
lọn tóc rủ xuống sau lưng, thường là tới tận mặt đất. Một số người chít
khăn quấn đầu, có hình dáng giống như chiếc khăn xếp của người Hồi
giáo”
(3)
. Chúng tôi đặt giả thiết, có thể tục vấn khăn của người Đàng Trong
sau năm 1744, chịu ảnh hưởng từ phong tục của người Trung Đông gián
tiếp qua tục vấn khăn của người Chăm hoặc người Thái. Riêng người
Chăm, trước thế kỷ XV cũng chưa có tục vấn khăn như ta thấy hiện nay.
1. (Trung) Lĩnh ngoại đại đáp. Tr.59-60. Nguyên văn: 以香膏沐髮如漆,裹烏紗巾,頂圓而小,自額以
上,細褶如縫,上徹於頂[…]足加鞵韈,遊於衢路,與吾人無異,但其巾可辨耳
2. (Việt) Dã sử lược biên Đại Việt quốc Nguyễn triều thực lục. Q.8. Tr.3. Nguyên văn: 乃改衣服易風俗,
與民更。始下令國内士庶男女並著襦袍,穿裳,纏巾
3. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792-1793). Tr.83
Chức cống đồ họa quyển (rộng 29.5 cm, dài 580 cm, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cố cung Bắc Kinh)
được vẽ bởi họa sĩ cung đình nhà Minh, Cừu Anh (1494? - 1552). Trong họa quyển này xuất hiện
các đoàn công sứ của nước Tây Hạ, Đại Liêu, Tam Phật Tề... đều là các nước tồn tại vào thế kỷ
XIII. Bức họa trên xuất hiện dòng chữ “An Nam hạ” (Nước An Nam mừng) trên lá cờ nên chúng
tôi ngờ rằng, đoàn cống sứ này có thể là đoàn cống sứ của nhà Lý. Cừu Anh có lẽ đã chép lại một
bức tranh đã có từ trước đó. Cần lưu ý rằng, các nhân vật thể hiện trong bức họa này hầu hết đều
vấn khăn. (China: The Three Emperors 1662 – 1795).
Lính Đàng Trong năm 1793 dưới nét
vẽ của William Alexander.