NGÀN NĂM ÁO MŨ - Trang 55

102

103

nguyên xuống lệnh đòi voi và yêu cầu triều cống hằng năm, vua Trần
Thánh Tông gửi thư sang giải thích: “Về lời dụ tìm voi, trước sợ trái ý
chỉ, nên loanh quanh chư a dám nói thẳng. Thực ra, duyên do là vì quản
tượng không nỡ xa nhà, khó sai họ khởi hành.”

(1)

Và phải 7 năm sau, năm

1278, sau khi nhà Tống hoàn toàn bị tiêu diệt, nhà Trần mới lần đầu
cống cho nhà nguyên 2 con voi

(2)

.

Sự xuất hiện của quân nguyên

Mông tại Trung Quốc vô hình trung
thúc đẩy mối quan hệ Việt - Tống
thêm hữu hảo. Sau khi quân nguyên
xâm chiếm vô số đất đai của nhà
Tống, vua tôi nhà Tống bị buộc phải
dời xuống giang nam bó gối trong
phần đất chật hẹp, khiến giao thông

Bắc nam trở nên ách tắc. năm 1242, “vua Trần Thái Tông sai tướng sang
đánh chiếm biên giới để thông hiếu với nước Tống.”

(3)

Trước nghĩa cử này,

năm 1243 vua Tống đã xuống chiếu, đặc biệt gia tặng vua Trần là “Thủ
nghĩa công thần”

(Công thần giữ nghĩa)

(4)

. Tiếp đó năm 1257, nhà nguyên

lấy được Vân nam, nhưng một năm sau, nhà Trần lại tiếp tục sai sứ sang
thông hiếu với Tống

(5)

. Đến khi nhà nguyên đã chính thức lập quốc vào

năm 1271, đặt kinh đô tại Yên Kinh, thì năm 1273, nhà Trần vẫn tiếp tục
sai sứ sang Tống biếu tặng phương vật

(6)

. Thậm chí, đến năm 1276, vua

nguyên Thế Tổ hốt Tất Liệt đánh giang nam, sai hợp Tán nhi hải nha
sang Đại Việt dụ sáu việc như điều dân, giúp quân để đánh Tống, nhưng
vua Trần Thánh Tông đều không nghe

(7)

. Dù rằng, một trong những lý

do của việc thường xuyên thông hiếu là nhằm thăm dò tình hình quân
nguyên và ý tứ chống nguyên của nhà Tống, song mối quan hệ Việt -
Tống dẫu nói thế nào, đặt trong bối cảnh đương thời vẫn có thể coi là
mối quan hệ hòa hiếu vô tiền lệ. Chính vì bén duyên từ mối quan hệ tốt

1. (Trung) Nguyên sử. Q.209. An Nam truyện. Nguyên văn: 來諭索象,前恐忤旨,故依違未敢直對。實
緣象奴不忍去家,難於差發
2. Phạm Văn Ánh. Văn thư ngoại giao thời Trần - Nội dung và Nghệ thuật. Trong Thông báo Hán Nôm học
2009.
Tr.99-127.
3. (Việt) Toàn thư. Tập 2. Tr.19.
4. (Trung) Tống sử - Bản kỷ - Q.46 - Độ Tông - Mục tháng 2, năm đầu tiên niên hiệu Hàm Thuần.
5. (Việt) Toàn thư. Tập 2. Tr.28-29.
6. (Trung) Tống sử - Bản kỷ - Q.46 - Độ Tông - Mục tháng 3, năm thứ 9 niên hiệu Hàm Thuần.
7. (Việt) Toàn thư. Tập 2. Tr.40.

đẹp này, trong quá trình nước Tống đi
đến diệt vong, vô số binh tướng, quan
dân người Tống đều lần lượt sang xin
quy phụ Đại Việt

(điều này lặp lại ở cuối thời

Minh)

(1)

. Xuất phát từ tâm lý ghét nguyên

mến Tống, trong việc phát triển văn hóa
Đại Việt sau khi kết thúc chiến tranh,
vua quan nhà Trần đã vừa kế thừa, phát
huy điển chương văn hiến vốn có của
nhà Lý, vừa tiếp tục áp dụng một phần
quy chế của nhà Tống, kiên quyết bài
xích chế độ của nhà nguyên.

Ý thức được sự bất đồng về văn hóa,

phong tục, trong lời dụ vua tôi Đại Việt
vào tháng 12 năm 1260, vua nguyên chấp nhận: “Quan lại dân chúng,
phàm áo mũ, điển chương, lễ nghi, phong tục cứ tuân theo chế độ trước
kia của nước mình.”

(2)

Tuy nhiên, dẫu vua nguyên nói ngon ngọt, hưng

Đạo Vương vẫn thẳng thừng gọi ông ta là Di tù

(tù trưởng di rợ)

và tỏ rõ ý chí

phản kháng đến cùng trước sự đe dọa của quân Mông Thát; vua Trần
Minh Tông, sau khi nghe sứ giả báo tin vua nguyên Anh Tông lên ngôi,
đã viết bài thơ có ý chúc mừng rằng: “Châu Tứ Minh tiếp giáp với biên giới
nước Việt
, cách nhau chẳng bao xa. Ngôn ngữ không khác nhau nhiều

(chỉ

ngôn ngữ Hán dùng trong quan phương)

, nhưng chế độ áo mũ không giống nhau

được [] Đành không phân biệt Hoa Di,

(mong rằng)

đều cùng nhau bước

lên cõi thọ.”

(3)

Thái độ “bài xích” y phục nhà nguyên còn được Phạm Sư

Mạnh thể hiện qua bài thơ xướng họa với sứ thần nhà Minh là Dư Quý:
“Triều đình mới

(nhà Minh)

đã thay đổi hết phong tục của người Hồ

(người

Nguyên)

, áo mũ lễ nhạc lại trở về với quy chế nhà Hán.”

(4)

Lý Tử Tấn, quan

văn thư thời Lê sơ bàn luận: “Từ sau khi người Nguyên vào Trung Quốc,

1. Như năm 1263, quan phủ Tứ Minh nước Tống là Hoành Bính đem 1200 bộ thuộc xin quy phụ (Toàn thư.
Tập 2. Tr.33);

năm 1274, 30 thuyền trở người Tống kéo sang xin quy phụ (Toàn thư. Tập 2. Tr.39); năm 1279,

khi nhà Tống mất hẳn, nhiều binh sĩ người Tống sang xin quy phụ, được Trần Nhật Duật thu nạp, sau này họ
cũng đã có những đóng góp không nhỏ trong việc đánh bại giặc Tác Ta (Toàn thư. Tập 2. Tr.55)
2. (Trung) Nguyên sử - Q.209 - An Nam. Nguyên văn: 官僚士庶,凡衣冠典禮風俗一依本國舊制
3. Thơ văn Lý Trần. Tập 2. Tr.740. Nguyên văn: 四明相接界,只隔馬牛風,言語無多別,衣冠不可同,
月生蛟室冷,日落鱷潭空,肯限華夷外,齊登壽域中
4. Thơ văn Lý Trần. Tập 3. Tr.124. Nguyên văn: 新朝一革胡風俗,禮樂衣冠復漢儀

Quai võng bằng đồng thời Trần.

(Bảo tàng Lịch sử Việt Nam).

1. Vua Nguyên Anh Tông; 2. Vua

Nguyên Thế Tổ; 3. Hoàng hậu của vua

Nguyên Thuận Tông; 4. Hoàng hậu của

vua Nguyên Thế Tổ. (Cố cung).

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.