120
121
vua Trần hiến Tông. Tuy nhiên, hai loại mũ dành cho vương hầu này có
lẽ không chỉ là những chiếc mũ trơn không có trang sức.
b. Phốc Đầu
Khoảng từ năm 1225 đến năm
1301, vào những buổi Thường triều,
bá quan văn võ nhà Trần đội mũ Phốc
Đầu, mặc bào phục như chế độ quan
phục của triều Lý. An Nam chí lược
mô tả sơ lược kiểu dáng của mũ Củng
Thần, Cổn Miện, song không mô tả
kiểu dáng mũ Phốc Đầu, chứng tỏ loại
mũ này của nhà Trần về cơ bản tương
tự như mũ của nhà Lý và nhà Tống,
ngoại trừ việc dùng vàng dát lên mũ
như Văn hiến thông khảo mô tả.
Theo ghi chép của An Nam chí
lược, dường như bá quan văn võ nhà
Trần, ngoại trừ ngạch Tụng quan, đều
nhất loạt được mặc áo bào màu tía. Lê
Tắc ghi nhận: “Mũ Miện, trong các dịp
đại lễ thì sử dụng. Lễ thường chỉ đội
mũ Phốc Đầu, áo bào tía, như Cung
hầu, Thư xá ông […] Các chức quan
và tá chức đội mũ Phốc Đầu, áo bào
tía.” Đây là điều khó hiểu, mâu thuẫn
với chính ghi chép của Toàn thư về
sắc phục thời Trần: “Bấy giờ Bảo Vũ
Vương được ban tước Thượng vị hầu mặc áo đen, Nguyễn Trung Ngạn sơ
suất, khi ghi sổ sách thì xếp lầm vào hàng áo tía. Vua thương ông có tài, vả
lại cũng do lầm lỡ, không bắt tội.”
(1)
Cương mục chú thích: “Chế độ phục
sắc của nhà Trần coi màu tía là trên hết, việc tước bỏ hay ban cho mặc
màu tía đều do Thượng hoàng quy định.”
(2)
những điều An Nam chí lược
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 時保武王賜皂衣上位侯阮忠彥疎略銓注反在紫衣之列。帝憐其才且
以事出過誤
2. (Việt) Cương mục. Nguyên văn: 陳制服色以紫為上,其除授多出于上皇.
ghi chép là điển chương chế độ nhà Trần trước năm 1287, trong thời gian
nhà Trần vừa trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân nguyên lần thứ
nhất và thứ hai. Phải chăng trong giai đoạn này, vua Trần nhân Tông đã
áp dụng phương thức tưởng thưởng “Tứ Tử Kim ngư đại”, đặc ban cho
một bộ phận lớn bá quan được mặc áo bào tía, riêng ban văn đeo thêm
Kim ngư đại, như một đặc ân đối với các công thần? Tuy nhiên, cũng
không loại trừ khả năng trong quá trình sao chép, do chữ 素 Tố (trắng
trơn) có tự dạng gần giống chữ 紫 Tử (màu tía), nên Tố phục (trang phục
trơn, không có hoa văn) đã bị chép nhầm thành Tử phục (áo màu tía).
Về các phụ kiện đi kèm theo bộ Công phục như đai, hốt, An Nam
chí lược cho biết: “Đai hoặc bằng sừng tê, hoặc bằng vàng, tùy theo phẩm
trật. Hốt ngà cũng như vậy. Các chức quan và tá chức đội mũ Phốc Đầu,
áo bào tía, đai sừng tê, không mang hốt, chắp tay lạy.” ghi chép cho thấy
vào thời Trần, đai của bá quan đều là loại đai đính sừng tê hoặc đai vàng,
không dùng loại đai đính đồi mồi như triều Lê - nguyễn. hốt ngà thời
Trần nhiều khi còn được khắc lên bài minh, như năm 1298 vua Trần Anh
Tông ban hốt cho Trần Thời Kiến, khắc bài minh do vua ngự chế: Thái
Sơn trinh cao/ Tượng hốt trinh liệt/ Linh trãi tiến giác/ Vi hốt nan chiết
(1)
.
ngoài ra, sứ thần Trần Cương Trung khi đi sứ Đại Việt còn miêu tả:
“Dân đều đi chân đất, thi thoảng có người đi giày da, đến điện liền cởi bỏ.
Những khi ra ngoại ô tiếp đón
(sứ giả)
, trăm người mặc áo bào, cầm hốt,
đều chỉ đi đất mà thôi.”
(2)
Trước đó năm 1059, vua Lý Thánh Tông quy
định bá quan phải đi hia mới được vào triều; còn theo ghi nhận của cha
Marini ở Đàng ngoài từ năm 1646 - 1658, tất cả các quan, kể cả hoàng
tử, hễ vào cung chầu vua đều phải đi chân đất, nếu đi giày dép sẽ bị coi
là có tội, chỉ có vua mới đi hài
(3)
. Chứng tỏ, vào thời Lý trước năm 1059
và từ thời Trần trở về sau đến hết thời Lê, khi vào chầu, các quan đều đi
chân trần.
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 以陳時見為入内行遣右諫議大夫,賜之笏,有御製銘曰:泰山貞高,
象笏貞烈,靈豸廌角,為笏難折
. Nghĩa là: Thái Sơn vững cao/ Hốt ngà cứng chắc/ Linh trãi dâng sừng/
Làm hốt khó gãy.
2. (Trung) Nguyên thi kỷ sự - Q.9 - Sứ Giao thi tập. Tr.178. Nguyên văn: 郊迎之際袍笏百人皆跣而已. Kiến
văn tiểu lục của Lê Quý Đôn cũng chép nội dung tương tự, duy chép sai chữ Tiển (đi đất) thành chữ Quỵ
(quỳ), nên bản dịch của Phạm Trọng Điềm (Tr.69) dịch là “Dân đều đi chân không, gián hoặc có người đi
giày da, khi đến cung điện thì trút giày ra. Trong lúc đón tiếp ở ngoài đô ấp, hàng trăm người mặc áo bào,
cầm hốt, đều quỳ.”
3. Dẫn theo Những lữ khách Ý trong hành trình khám phá Việt Nam. Tr. 61 -62.
Thượng thư Trần Đình Bá mặc Triều phục,
cầm hốt. (Ảnh: Bùi Trung Sơn).
Hốt: Thích Danh viết: “Hốt, vua
có lời bảo ban, mệnh lệnh hoặc bề
tôi có lời muốn tâu thì viết lên hốt
cho khỏi quên.” Loại chí - Lễ nghi
chí viết: “Xét trong Kinh Lễ có nói:
Quan đại phu sắp đến công sở,
sử quan đưa cho cái hốt, viết ba
chữ Tư Đối Mệnh (Nhớ làm tròn
bổn phận để đáp lại mệnh vua).
Như thế để khỏi lãng quên và phải
kính cẩn. Đó là ý tứ sâu sắc của cổ
nhân.” Về sau, hốt chỉ mang tính
trang sức, biểu thị cấp bậc.