136
137
như Văn quan vinh quy đồ, Võ quan vinh
quy đồ, Giảng học đồ.
Đối với một số chất liệu vải vóc thời
Trần - hồ, Cao hùng Trưng nhận xét: “Vải
vóc nước ấy thì có các loại the Cát Liễu, the
hoa tim táo sợi thẳng, the hợp, lụa bóng,
bông, ỷ (
the lụa có hoa bóng chằng chịt không dùng
sợi thẳng, đều gọi là ỷ)
, lĩnh, là, hài tơ khá lạ mà
tốt. Hai thứ gai, tơ chuối thì được chắp lại
làm vải, mịn như lụa nõn, rất hợp mặc vào
mùa hè.”
(1)
ngoài ra, Uông Đại Uyên, người nhà
nguyên trong Đảo di chí lược còn mô tả
người Việt thời Trần “mặt trắng răng đen,
thắt đai, đội mũ, mặc áo Đường, áo trùm
bên ngoài màu đen, tất tơ, giày vuông.”
(2)
Tuy nhiên, những người Việt trong miêu tả
của Uông Đại Uyên có lẽ đều là quý tộc.
Bởi thứ nhất, người thời Trần chỉ đội mũ khi có việc công cán cần ra
ngoài. Đối với các quan, “khi ở nhà họ để đầu trần, thấy khách thì đội
mũ, đi đâu xa thì một người bưng mũ mang theo”
(3)
, còn thứ dân “ở nhà
ngày thường không đội mũ.”
(4)
Thứ hai, đối với thường dân, việc đi giày
tất có lẽ không mấy dễ chịu, đặc biệt trong những ngày nóng bức. Qua
những ghi chép của sứ thần Trần Cương Trung năm 1292, ta thấy quan
dân thời Trần đa số đều ưa đi đất: “Dân đều đi chân đất […] Da chân họ
rất dày, leo núi như bay, gai góc cũng không sợ.”
(5)
An Nam chí nguyên
dẫn sách Giao Chỉ thông chí cho biết: “Dân đều đi đất, chỉ có người cao
sang mới đi giày da.”
(6)
nguyên do của việc đi đất để đầu trần được Lê
Quý Đôn giải thích: “Vì nước ta là nơi nóng nực, ẩm thấp, nhân dân lúc
1. (Trung) An Nam chí nguyên - Q.1 - Thổ sản. Nguyên văn: 其布帛則有吉了紗、平文棗心花紗、合
紗、光絹、綿、綺、綾、羅、絲鞋等物頗爲奇好。麻、蕉二物則可緝而為布,細如羅紈,尤宜暑服
2. (Trung) Đảo di chí lược - An Nam: 男女面白而黑齒,帶冠,穿唐衣,皂褶,絲襪方履
3. (Trung) Nguyên thi kỷ sự - Q.9 - Sứ Giao thi tập. Tr.178. Nguyên văn: 家居囚首,見客乃巾,遠行則
一人捧近巾以從
4. (Trung) An Nam chí lược - Phong tục. Nguyên văn: 平居不冠
5. (Trung) Nguyên thi kỷ sự - Q.9 - Sứ Giao thi tập. Tr.178. Nguyên văn: 民皆徒跣[…]足皮甚厚,登山如
飛,荒刺亦無所惧
6. (Trung) An Nam chí nguyên - Q.2 - Phong tục. Nguyên văn: 交趾通志云民皆跣足,惟貴者行有革履
thường không đội khăn (mũ), không đi giày, động tác mới được thuận
tiện, việc này đã thành thói quen, không thay đổi được.”
(1)
Thứ ba, theo
hình vẽ người Việt trong Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ và Tam tài đồ hội,
có thể thấy nam giới người Việt thế kỷ XIV, XV không mặc quần dài, để
lộ bắp chân trần. Cách ăn vận giản tiện này từng được Cristoforo Borri
mô tả (khoảng 1615): “Đàn ông thay vì mặc quần dài thì dùng cả một
tấm vải để quấn lại, phía trên mặc thêm năm hoặc sáu mảnh áo dài và
rộng”
(2)
như vậy, cách ăn vận kết hợp giữa áo, mũ, quần, xiêm hẳn được
ưa chuộng vào những ngày mát lạnh, thường có đối tượng là tầng lớp
trung thượng lưu. nam giới bình dân thường chỉ đóng khố, mặc chùm
ra ngoài chiếc áo dài.
2. Kiểu tóc
Vào thời Lý, theo mô tả của Chu Khứ
Phi, người Việt phần lớn búi tóc chuy kế.
Tuy nhiên, bước sang thời Trần, sứ thần
nhà nguyên là Trần Cương Trung lại
miêu tả đàn ông người Việt hầu hết đều
cạo trọc. Lê Quý Đôn diễn giải ghi nhận
của Trần Cương Trung: “Thời Trần, người
trong nước đều cạo tóc, cho nên ‘Sứ Giao
thi tập’ của Trần Cương Trung thời Nguyên
mới chú rằng: Đàn ông đều trọc, người có
quan chức thì dùng khăn xanh phủ đầu,
dân đều như sư cả. Đến thời thuộc Minh,
Hoàng Phúc mới bắt đầu cấm cạo tóc, đến
nay dân vùng Giao Thủy, Kiên Lao, Trà
Lũ vẫn còn giữ tục này.”
(3)
Lệnh cấm của
giao Chỉ bố chính ty hoàng Phúc mà Lê Quý Đôn nhắc tới ở đây chính
là những sắc lệnh nêu trong Thân minh giáo hóa bảng văn được ban
hành tại Việt nam năm 1414: “Kẻ nào còn dám noi theo thói tệ, cạo trọc
1. (Việt) Kiến văn tiểu lục. Nguyên văn: 炎方暑熱旱濕,人民平居不巾履,始便食作,習俗已成,不
可改也
2. Dẫn theo Những lữ khách Ý trong hành trình khám phá Việt Nam. Tr. 41
3. (Việt) Kiến văn tiểu lục. Nguyên văn: 陳時國中皆剃髮,故元陳剛中《使交詩集》註云“男子悉髡,
有官職則以青巾幕之,民悉僧也”至明黃福始禁髡髮,今膠水堅牢、茶縷之民猶存舊俗
Phụ nữ thời Lê mặc áo cổ tròn bốn
vạt khớp với những mô tả về trang
phục thời Lý Trần. (Văn quan vinh
quy đồ, thế kỷ XVII, XVIII. BT-
MTVN). Về màu sắc trang phục
thời Lê, Kiến văn tiểu lục của Lê
Quý Đôn cho biết: “Đến bản triều
ngày nay thì tục […] mặc áo thâm
đen đã thay đổi rồi”.
Người Giao Chỉ trong Tam tài đồ
hội (thế kỷ XV).