138
139
đi đất […] Hữu Ty sở tại sẽ nghiêm khắc
trừng trị”
(1)
. như vậy việc nam giới người
Việt thời Trần thường cạo trọc đầu là
việc hoàn toàn có thực. Thói quen này
tiếp tục được duy trì đến thời Lê sơ. Phải
đến năm 1470 vua Lê Thánh Tông mới
ra lệnh cấm “những người không phải
sư sãi không được cạo trọc đầu”
(2)
. Kể
từ đây, tục cạo trọc trong dân gian Việt
nam mới dần dần biến mất, và khoảng
200 năm sau đó, năm 1642, quan niệm
của người Việt về tục cạo trọc đã hoàn
toàn thay đổi. Lúc này thương gia người
Pháp Jean Baptiste cho biết người Việt “cho rằng để đầu trọc là một hành
động xúc phạm đến danh dự, và chỉ có những kẻ phạm tội hình sự, khi bị
bắt mới bị cạo trọc đầu.”
(3)
Tuy nhiên vào thời Trần, ngoài những người cạo trọc vẫn có những
người búi tóc chuy kế hoặc cắt tóc ngắn như ghi nhận của nghiêm Tòng
giản và Cao hùng Trưng “có người búi tóc chuy kế, có người cắt tóc, xăm
mình, đi đất, miệng đỏ răng đen”
(4)
. như vậy cách nói “người trong nước
đều cạo tóc” của Trần Cương Trung là cách nói có phần khoa trương. Ở
đây, nghiêm Tòng giản và Cao hùng Trưng đều viện dẫn cổ tịch, ghi
nhận người Việt có tục cắt tóc ngắn và búi tóc chuy kế. Riêng tục cắt tóc
ngắn có thể coi là một trong những tục để tóc có lịch sử lâu đời nhất,
từng được triều đình Lê sơ hết sức cổ xúy sau khi phục quốc.
ngay từ năm 137 trước Công nguyên, hoài nam Vương Lưu An gửi
sớ cho vua hán Vũ Đế đã nói: “Việt là vùng đất biên viễn, là dân cắt tóc
xăm mình. Người Việt cắt tóc thì không thể dùng pháp độ của một nước
đai mũ để trị được”
(5)
. Tư Mã Thiên cho biết: “Cắt tóc xăm mình, trổ cánh
1. (Trung) An Nam chí nguyên. Nguyên văn: 敢有因循弊风,及髡钳跣踝[…]所在有司严加惩治.
2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 禁非僧類不得剃髮
3. Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài (1681). Tr.50.
4. (Trung) Thù vực chu tư lục - Q.5 - An Nam. Nguyên văn: 推髻剪髮,紋身跣足,口赤齒黑,好食檳榔
(Trung) An Nam chí nguyên - Q.2 - Phong tục. Nguyên văn:南越外紀云其人或椎髻或剪髮,文身跣足,
口赤齒黑,尊卑皆食檳榔
5. (Trung) An Nam chí lược - Q.5 - Tiền triều thư sớ - Mân Việt kích Nam Việt Hán Vũ đế hưng binh chu Mân
Việt, Hoài Nam vương An thướng thư gián. Nguyên văn : 越,方外之地,劗髮文身之人也,越人劗髮不
可以冠帶之國法度理也
tay, áo vạt trái, ấy là dân Âu Việt”
(1)
, đồng thời mô tả Việt vương Câu Tiễn
trước đó 300 năm “được phong ở Cối Kê để phụng thờ Hạ Vũ. Câu Tiễn
xăm mình, cắt tóc, phạt cỏ hoang mà lập ra thôn ấp.”
(2)
Thậm chí, Trang
Tử (365 – 290 tr.Cn) cũng từng đề cập tới việc người Việt phía nam sông
Dương Tử có tập tục chung là cắt tóc xăm mình
(3)
. như vậy có thể thấy,
tục cắt tóc xăm mình của cư dân Bách Việt nói chung, người Việt vùng
đồng bằng châu thổ sông hồng nói riêng là tập tục xuất hiện từ rất sớm.
Tác giả của cuốn Lĩnh Nam chích quái thời Trần, qua truyện về họ hồng
Bàng đã lý giải nguồn gốc của tập tục này rằng, buổi quốc sơ người Việt
“cắt tóc ngắn để tiện vào rừng núi”
(4)
.
Vào thời Trần, năm 1300, triều đình Đại Việt từng có quy định mũ
mão dành riêng cho các vương hầu, ai tóc dài đội mũ Triều Thiên, ai
tóc ngắn đội mũ Bao Cân. hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được Toàn
thư mô tả là đã cắt tóc trước khi đến sứ quán gặp Sài Thung
(5)
. người
dân Việt thể hiện trong bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ và bức
1. (Trung) Sử ký - Triệu thế gia. Nguyên văn: 翦髮文身,错臂左袵,甌越之民也
2. (Trung) Sử ký - Việt Vương Câu Tiễn thế gia. Nguyên văn: 封于會稽,以奉守禹之祀。文身斷髮,披草
莱而邑焉
3. (Trung) Trang tử - Nội thiên - Tiêu Diêu du. Nguyên văn: 宋人資章甫而適諸越,越人斷髮紋身,無所
用之
4. (Việt) Lĩnh nam chích quái - Hồng Bàng thị truyện. Bản A.2107, VHv.1473, nguyên văn: 剪短其髮以便
山林之入.
Bản A.33: 剪短其髮以便山川之入 cắt tóc ngắn để tiện vào sông núi.
5. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 時國峻已剪髮服布衣矣
Tượng Thái sư Trần Thủ Độ, chùa Cầu
Đông, Hà Nội. (Ảnh: TQĐ).
Người dân Việt cắt tóc ngắn, đi chân đất, khiêng võng chở Phật hoàng Trần
Nhân Tông. (Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ).