142
143
dịch ra quốc ngữ để dạy vua
(1)
, rồi làm sách Quốc
ngữ thi nghĩa và bài tựa, sai nữ sư dạy hậu phi và
cung nhân, trong đó “bài tựa phần nhiều theo ý
mình, không theo tập truyện của Chu Tử”
(2)
Chính
những động thái này của hồ Quý Ly khiến một bộ
phận nho sĩ nhà Minh đương thời coi ông là kẻ
hủy báng nho giáo Trung Quốc, như tác giả của
Bình định Nam Giao lục, Khưu Tuấn nói: “Quý Ly
xưng Thái thượng hoàng, hủy báng Nho giáo Trung
Quốc, gọi Mạnh Tử là tay nho ăn trộm, Trình Hạo,
Trình Di, Chu Tử là kẻ cóp nhặt.”
(3)
Trong bài thơ đáp lời hỏi của người Minh về
phong tục của người nước Việt, hồ Quý Ly nói:
“Muốn hỏi chuyện nước An Nam/ Nước An Nam
phong tục thuần hậu/ Áo mũ như chế độ nhà
Đường/ Lễ nhạc tựa vua quan nhà Hán.”
(4)
Đây
cũng chính là tư tưởng chủ đạo của đợt cải cách
y phục Thường triều năm 1396, mà quá bán các
dạng mũ mão tân chế có nguyên mẫu là những loại
mũ thịnh hành vào thời hán - Đường ở Trung hoa
như mũ Cao Sơn, Viễn Du, Thái Cổ, Khước Phi v.v.
hoàn toàn khác với các kiểu mũ thời Lý - Trần vốn chịu ảnh hưởng bởi
quy chế nhà Tống. Bên cạnh việc đặt ra một số kiểu áo mũ Thường triều,
nhà hồ còn quy định toàn bộ những binh lại không phẩm cấp, hạng
hoành nô mặc áo màu trắng, đi ngược lại tập quán của nhà Trần vốn coi
màu trắng là màu sang trọng, chỉ dành cho vua. ngoài ra, năm 1395, hồ
Quý Ly còn ra lệnh cho bá quan không được mặc áo thụng tay, đổi hết
thành áo hẹp tay
(5)
; năm 1396 quy định cho văn võ bá quan từ lục phẩm
trở lên đều được đi giày Tích trong các buổi Thường triều. giày Tích vốn
là loại giày thời hán, đến thời Tống chỉ còn được sử dụng vào những dịp
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 季嫠因編無逸篇,譯為國語,以教官家
2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 季犛作國語詩義并序, 令女師教后妃及宫人學習, 序中多出己意, 不
從朱子集傳
3. (Trung) Ký lục vựng biên - Q.47 - Bình định Nam Giao lục. Nguyên văn: 季犛稱太上皇,毀中國儒教,
謂孟子為盜儒,程朱為剽竊
4. (Trung) An Nam chí lược. Nguyên văn: 欲問安南事,安南風俗淳。衣冠唐制度,禮樂漢君臣
5. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 六月禁百官不得用大袖衣,許用小袖
đại lễ. Tuy nhiên năm 1404, sau khi hồ
hán Thương chính thức lên ngôi hoàng
đế, lại lệnh cho bá quan không được đi
giày Tích, chỉ cho đi hài gai sống
(1)
. Điều
này càng thể hiện tâm lý sùng cổ của nhà
hồ, nhất quán với việc đặt tên nước là Đại
ngu, đồng thời thể hiện tâm lý muốn khác
biệt hẳn về y quan phẩm phục so với nhà Trần trước kia và khu biệt với
nhà Minh do người hán vừa lập ra ở phương Bắc.
Đối với trang phục của các vua nhà Hồ, Toàn thư chỉ cho biết năm
1399, hồ Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng, mặc áo màu bồ
hoàng
(2)
. Trong bài thơ tặng nguyễn ngạn Quang, hồ Quý Ly viết: “Mắt
này đâu bị Miện lưu che”, chứng tỏ trong dịp đại lễ lên ngôi, tế trời đất
(Hồ Hán Thương cho dựng đàn tế Giao vào năm 1402), cha con họ hồ
cũng đội mũ Bình Thiên, sử dụng nghi lễ của thiên triều.
Đối với trang phục của bá quan nhà Trần và nhà hồ từ tháng 6
năm 1396 cho đến khi nhà hồ diệt vong, Toàn thư cho biết: “Quan nhất
phẩm áo màu tía; nhị phẩm màu đỏ thẫm; tam phẩm màu hồng; tứ
phẩm màu lục; ngũ phẩm, lục phẩm, thất phẩm màu biếc; bát phẩm,
cửu phẩm màu xanh. Riêng nội thị mặc váy mở. Đều không được mặc
thường. Người không có phẩm hàm và hạng hoành nô dùng màu trắng.
Lại theo chức tước bá quan, từ lục phẩm trở lên dùng mũ Cao Sơn, Chánh
lục phẩm được thắt đai, đi giày Tích. Về sắc mũ, chánh thì sắc đen, tòng
thì sắc xanh. Người tôn thất đội mũ Phương Thắng màu đen. Võ quan
tước lục phẩm đội mũ Chiết Xung. Tước cao mà không có chức thắt đai,
đội mũ Giác Đính. Từ thất phẩm trở xuống đội mũ Thái Cổ; Tòng thất
phẩm đội mũ Toàn Hoa. Vương hầu đội mũ Viễn Du; Ngự sử đài đội mũ
Khước Phi”
(3)
ngoài ra, Toàn thư còn ghi nhận năm 1437 vua Lê Thái
Tông quy định cho bá quan văn võ đều đội mũ Cao Sơn, đồng thời chú
1. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 漢蒼令官員不得著舃.惟許著生麻鞋,前代故事,正六品以上方得著舃
2. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 六月季犛自稱國祖章皇,服蒲黃色
3. (Việt) Toàn thư. Nguyên văn: 六月定文武冠服。一品紫色,二品大紅,三品桃紅,四品綠,五六
七品碧,八九品青。惟内侍開裙皆不用裳,無品及宏奴白色。又從官職爵六品以上用髙山巾,正六
品得束帶著舄。巾正皂色,從青色。宗室皂方勝巾;武爵六品用折衝巾;爵髙無職得朿帶,戴角
頂巾。七品以下用太古巾;從七品攅花巾;王侯戴遠逰巾;御史臺却非巾
Cụm từ “khai quần”, bản
dịch của Nxb. KHXH năm 1998 dịch là “quần hai ống” không chính xác. Ngoài ra, cụm từ 從官職爵 được
dịch là “các tụng quan chức tước” theo chúng tôi cũng không chính xác; chữ 從 ở đây nên phiên là “tòng”,
hiểu theo nghĩa động từ là “theo”.
Trang sức hình phương thắng
(Trung Quốc phục sức đại từ điển).
Chim phượng thời Lý
Trần (Hoàng thành
Thăng Long) và chim
phượng thời Hồ (Trung
tâm bảo tồn di sản thành
nhà Hồ). Dù trang phục
bá quan thời Lý, Trần,
Hồ mỗi thời một vẻ,
song phong cách kiến
trúc, nghệ thuật Lý Trần
vẫn tiếp tục được kế
thừa đến đầu thời Lê.