còn nhìn thấy gì, không nghe thấy gì. Tất cả những tiếng nói,
những cái đầu chụm bên cửa sổ, bên cửa sắt, các cửa hiệu, các
cây đèn đường; những người đi xem hành hình, khao khát và độc
ác; trong đám đông đó ai cũng biết tôi mà tôi chẳng biết một ai;
con đường lát đá và hai bên chật cứng những bộ mặt người… Tôi
như người say rượu, đờ dẫn, điên dại… Chính là không thể chịu
đựng được sức nặng của hàng nghìn con mắt đổ dồn nhìn mình.
Thế là tôi chao đảo trên ghế, chẳng buồn chú ý đến ông linh
mục và cây thánh giá nữa.
Trong tiếng ồn ào bao quanh, tôi không phân biệt nổi đâu là
những tiếng kêu xót thương, đâu là tiếng hò reo vui mừng,
những lời than thở, những tiếng động khác. Tất cả những thứ
tiếng đó vang lên trong đầu tôi như tiếng dội của kèn đồng.
Mắt tôi lướt một cách máy móc trên các biển hiệu.
Một lần tính tò mò kỳ lạ khiến tôi muốn quay đầu ra đằng sau
nhìn xem mình đã đi đến đâu rồi. Đó là thách thức lần cuối cùng
của trí óc. Nhưng thân thể thì không muốn; gáy của tôi tê liệt
như chết trước rồi.
Quay sang bên cạnh tôi chỉ thoáng nhìn, phía tay trái, bên kia
con sông là Tòa Vọng lâu của Nhà thờ Đức Bà, nhưng từ trong xe
nhìn ra thì chỉ thấy một còn tháp kia bị che lấp. Chính cái cờ treo
ở trên tháp bị che lấp. Ở đấy có nhiều người chắc là nhìn rõ.
Rồi chiếc xe cứ lăn, cứ lăn, những cửa hiệu chạy qua trước
mắt, những biển tên nối đuôi nhau, trên viết chữ màu trên nền
sơn vàng óng, đám dân đen đi xem hành hình cười nói râm ran,
bì bõm lội trong bùn. Đầu óc tôi miên man nghĩ, giống như
những người buồn ngủ, thiếp đi trong cơn mê ngủ của họ.
Hàng loạt cửa hiệu diễu qua trước mắt tôi bỗng nhiên bị ngắt
quãng ở góc quảng trường: tiếng nói của đám đông trở nên rộng