cái thùng nơi thường để suất ăn cho thằng bé. Lần này thì cô đã bày một bộ
đồ ăn, và rốt cuộc tổng thể nom giống một bàn ăn tối được kê ngay giữa
đồng không mông quạnh.
Harry xuất hiện trên lối mòn dốc lên từ phía bờ sông. Hai vai và đầu
vươn thẳng, thằng bé có dáng đi rất đĩnh đạc. Khi thằng bé tới, Keira vẫy
tay chào nó rồi bắt đầu ăn. Thằng bé hơi ngần ngừ rồi ngồi xuống vị trí đối
diện với cô. Thế là họ cùng sẻ chia bữa tối đầu tiên ấy dưới bầu trời đêm và
Keira bắt đầu dạy cho Harry những từ vựng đầu tiên. Thằng bé không hề
lặp lại từ nào, nhưng đến ngày hôm sau, vào lúc ăn, nó đọc thuộc lòng tất cả
những từ nghe được hôm trước, không nhầm lẫn tí gì.
Chỉ ít lâu sau đó Harry mới chịu xuất đầu lộ diện giữa ban ngày ban
mặt. Keira đang khéo léo đào bới đất, hy vọng cuối cùng sẽ khám phá ra
thứ gì đó thì thằng bé tiến lại gần. Khoảng thời gian tiếp cận đó thuộc vào
những thời điểm đặc biệt nhất. Không hề bận tâm đến việc Harry có hiểu
những gì cô nói hay không, Keira giải thích với thằng bé từng cử chỉ mình
đang thực hiện, lý giải tại sao việc tìm kiếm không ngừng nghỉ những mảnh
hóa thạch nhỏ xíu đối với cô lại quan trọng đến thế, làm thế nào mỗi người
trong số họ lại có thể chứng thực cách thức con người xuất hiện trên hành
tinh này.
Ngày hôm sau Harry trở lại vào đúng tầm giờ đó, và lần này trải qua
trọn buổi chiều bên nhà khảo cổ học. Những ngày tiếp theo thằng bé vẫn
làm vậy, luôn đến với một sự chính xác về giờ giấc khiến người ta phải
ngạc nhiên – vì Harry làm gì có đồng hồ đeo tay. Hàng tuần trôi qua và
không một ai thực sự nhận thấy chuyện này, đó là thằng bé không rời khỏi
khu trại nữa. Trước mỗi bữa ăn, trưa và tối, thằng bé đều chịu đựng mà
không hề tỏ ra cau có công việc lao dịch là học từ vựng mà Keira vẫn
thường phân cho nó.
Tối hôm nay, cô những muốn lại một lần nữa nghe thấy tiếng bước chân
thằng bé, như mỗi khi nó lảng vảng lượn quanh lều của cô trong lúc chờ cô