Keira ngồi ở ghế phụ lái còn tôi ngồi ở ghế hoa tiêu. Đúng ra là nhã
nhặn, viên phi công cướp biển của chúng tôi nghiêng sang Keira nói với cô
ấy, bằng một thứ tiếng Anh sơ đẳng, rằng chiếc máy bay này sản xuất từ
thời hậu chiến. Cả Keira lẫn tôi đều không dám hỏi ông ta muốn nói cuộc
chiến nào.
Ông ta yêu cầu chúng tôi thắt dây an toàn; tôi xin lỗi vì không tôn trọng
hiệu lệnh an toàn này, thắt lưng an toàn trang bị cho chỗ ngồi của tôi đã
biến mất. Bảng điều khiển bật sáng, hay đúng hơn là vài mặt đồng hồ, trong
khi những cái kim khác vẫn nằm trơ khấc. Viên phi công kéo hai tay gạt,
gạt một cơ số nút – ông ta có vẻ thạo việc – và hai động cơ Pratt & Whiney
– nhãn hiệu có ghi trên nắp đậy – khạc ra một làn khói dày. Một chùm lửa
tóe ra và các chong chóng bắt đầu quay tít. Đuôi máy bay xoay quanh; trượt
như thể chúng tôi đang ở trên băng, máy bay xoay dọc theo đường băng.
Tiếng động trong buồng lái trở nên đinh tai, mọi thứ rung chuyển. Tôi nhìn
qua cửa sổ máy bay thấy người nhân viên hãng lữ hành đang khua khoắng
ra hiệu với chúng tôi, tôi chưa bao giờ căm ghét ai đó như căm ghét gã này.
Bị lay lắc mạnh, chúng tôi tăng tốc. Đoạn cuối đường băng sát lại gần theo
cách đáng lo ngại. Tôi bỗng cảm thấy đuôi máy bay nhấc bổng lên, rốt cuộc
chúng tôi cũng trồi lên cao. Tôi dám chắc chúng tôi vừa đẽo mất vài
centimét ngọn cây bị bỏ lại đằng sau, nhưng chúng tôi đã lấy được độ cao
qua từng phút một.
Viên phi công giải thích rằng chúng tôi sẽ không bay cao quá, để không
lọt vào bán kính rađa. Ông ta vừa nói thế vừa cười nên tôi rút ra kết luận
rằng không cần phải lo lắng chuyện đó.
Trong giờ bay đầu tiên, chúng tôi bay trên một thảo nguyên; viên phi
công bay cao một chút khi phần địa hình hơi cao hiện ra đằng trước chúng
tôi, hai tiếng sau, chúng tôi đang ở phía Đông Bắc Vân Nam. Viên phi công
chuyển hướng, rẽ sang hướng chếch Nam. Đường đi sẽ dài hơn, nhưng cách
tốt nhất để rời khỏi Trung Quốc là đi dọc theo biên giới Lào, hệ thống giám
sát hàng không tại đó hầu như không tồn tại. Tôi không thể nói rằng, cho tới