- "Khu phố... (đằng hắng)... khu phố cho đến vài năm trước đây đã có
trên mười ngàn người, nhưng gần đây, do xu hướng rời bỏ nghề nông, tình
trạng dân số giảm nhanh, lớp người trẻ dời ra đô thị, trở thành vấn đề khó
giải quyết. Quá nửa số bạn bè cùng lớp của chính tôi cũng đã rời khỏi khu
phố này rồi. Tuy thế, tất nhiên là vẫn còn có nhiều người chọn ở lại cùng
phấn đấu với khu phố".
Cứ như là đang nhìn vào tấm gương soi rọi tương lai, cô nhìn đăm đăm
vào ngay giữa ống kính truyền hình mà tiếp tục nói. Xuyên qua màn hình,
đôi mắt cô nhìn tôi đăm đăm. Tôi lấy hai lon bia từ trong tủ lạnh ra, mở
khoeo, uống một hơi.
Khu phố của cô.
Tôi tưởng tượng ra được hình ảnh khu phố của cô. Nhà ga mỗi ngày chỉ
có tám chuyến xe lửa dừng lại, phòng đợi có lò sưởi, bùng binh nhỏ lạnh
lẽo, bản đồ hướng dẫn khu phố chữ đã mờ đi đến không đọc được phân nửa,
khóm hoa vạn thọ và hàng cây nanakamado 2, con chó trắng lông bẩn
những vết mệt mỏi cùng tận của đời, con đường chính rộng một cách vô lối,
áp phích tuyển mộ lính Tự Vệ Đội 3, tiệm bách hoá ba tầng, bảng hiệu tiệm
bán đồng phục học sinh và thuốc đau đầu, một quán trọ nhỏ, toà nhà hợp tác
xã nông nghiệp cùng trung tâm lâm nghiệp cùng hội chấn hưng chăn nuôi,
một ống khói nhà tắm công cộng đơn độc sừng sững chĩa lên khung trời
màu tro xám. Đi thẳng trên con đường chính, quẹo trái, qua khỏi ngả tư là
có ủy ban Hành chánh Khu phố, trong Ban Thông tin có cô ấy ngồi đấy.
Một khu phố nhỏ bé, buồn tẻ. Hết nửa năm bị bao phủ trong tuyết. Và cô
tiếp tục viết những bản thảo quảng bá cho khu phố ấy.
Trong căn phòng nhỏ của khách sạn ở Sapporo, đời tôi và đời cô ấy tình
cờ đã giao tiếp với nhau. Nhưng vẫn cảm thấy thiêu thiếu chút gì đấy. Trên
chiếc giường khách sạn này, ngày sống cứ như là bộ áo mượn, không ôm
khít khao quen thuộc với thân mình được. Lưỡi dao cùn không ngừng chặt