nhật, nhất định cùng nhau tới nhà ăn cơm, mọi người tự mình thái
rau nấu cơm, ăn uống no nê.
Mỗi lần tôi và các đàn anh đàn chị nói chuyện phiếm, thầy luôn lẳng
lặng ngồi một bên lắng nghe. Có lúc, thầy vừa khẽ thở dốc vừa ngồi co
ro trên sô pha mỉm cười. Đợi thầy hơi thu lại nụ cười trên môi, lại
khiến người ta cảm thấy thầy không giận mà uy nghiêm, trong từng
cử chỉ giơ tay nhấc chân có thể thấp thoáng thấy được sự quả cảm và
tài giỏi ngày xưa của thầy.
Khi không có học sinh khác đến, tôi ngồi bên bàn, nghe thầy hào
hứng kể những câu chuyện thú vị như năm xưa đi chân đất, khăn gói
quả mướp từ Hồ Nam đến Đại học Nam Khai xin học thế nào; làm
người chăn lợn trong đợt về nông thôn theo “chỉ thị 57” ra sao. “Lúc
thê thảm nhất, thầy hai bàn tay trắng, nhìn không ai thân thích, thậm
chí không có chỗ dừng chân ngủ…”
Trong lúc nói cười, những năm tháng đầy khổ nạn và chuyện xưa
gian nan đó đều đã tan thành mây khói, như chim nhạn bay qua
không để lại dấu vết.
Nhắc đến người vợ mất sớm, thầy Trương vẫn hơi thương cảm. Năm
xưa bà là diễn viên múa của Nhà hát Ca Múa Nhạc, mỗi lần thầy lật
album ảnh cũ, chỉ cho tôi xem tấm ảnh sân khấu đen trắng, trong đó
bà mặc chiếc váy múa của người dân tộc Di, đầu ngón tay thầy không
giấu nổi vài phần nỗi buồn của nhạn lẻ độc hành.
Thầy Trương ra đi vào một ngày xuân nắng đẹp. Được biết tin dữ,
tôi không dám tin. Vì mấy ngày trước, thầy còn gọi điện thoại cho tôi
nói sức khỏe hơi kém, định đến bệnh viện thở oxy, bảo tôi vài hôm nữa
đến ăn món chao thầy tự tay làm.
Từ bé đến lớn, xuất phát từ nỗi sợ hãi vô cớ đối với cái chết, tôi từng
từ chối tham gia bất cứ tang lễ nào. Thế nhưng, tôi phải đi tiễn thầy, tôi
biết thầy sợ cô đơn, đã sợ suốt một đời dài đằng đẵng. Hôm đó, đứng
giữa rừng bia mộ trang nghiêm, tôi cung kính dâng một bó lớn hoa cúc
vàng lên mộ thầy.