không cao quý nhưng lại liên quan mật thiết với cuộc sống của
người dân, thuật lại tâm tư nhớ người và tình cảm nhớ quê. Mà
tâm tình uyển chuyển hàm súc lặng lẽ lan tỏa này là thứ tôi thích
nhất.
Thời trẻ đọc
Bài ca hái rau vi
, tôi rất không đồng tình với “đạo
đức và hành vi cao thượng” của hai anh em Bá Di, Thúc Tề
-
Thượng đại phu nhà Thương Tôi không thể nào nghĩ thông suốt
vì sao họ lại bướng bỉnh như thế, thậm chí “vì nghĩa mà không ăn
thóc nhà Chu, ẩn cư ở núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa, rồi
chết đói”. Còn có Trương Hàn người thời Tấn, ở Lạc Dương. Vì
thấy gió thu nổi lên, ông bất giác nhớ món canh rau rút của quê
nhà, vậy mà lại từ quan về quê.
Đối với những hành động này, tôi của lúc đó cảm thấy người
xưa điên cuồng đến mức không sao hiểu nổi, nói trắng ra chính là
“ngốc nghếch”. Nhưng theo tuổi tác lớn dần, tôi phát hiện, rau dại
cũng có sinh mệnh, cũng có tình cảm. Những tình cảm này tích
lũy từng chút từng chút nơi đáy lòng, cuối cùng trở thành một
mùa xuân trọn vẹn.
Giống như tất cả những người sinh vào thập niên 70 thế kỷ XX,
ký ức đau khổ cầm phiếu xếp hàng mua lương thực hồi bé khiến
tôi ghi lòng tạc dạ. Tôi từng rất ham chơi, leo cây trèo tường
không có việc gì là không thể, do vận động nhiều nên thường ở
vào trạng thái đói khát. Vì vậy, nửa túi bột ngó sen, một quả táo,
một lon quýt đóng hộp đều khiến tôi và em trai tranh nhau khó
bề phân giải.
Còn nhớ đến mùa mã thầy, rất nhiều người bán hàng rong vừa
đẩy xe nhỏ vừa gọt vỏ mã thầy xuất hiện ở đầu phố, thỉnh thoảng
mẹ sẽ mua một chậu lớn mã thầy và mía nấu nước cho cả nhà
uống.