cười, anh ta đành tiếp tục: “… Thưa quý vị, người biểu diễn: ngài nghệ sĩ
nước ngoài nổi tiếng Voland, với các tiết mục hắc ảo thuật! Tất nhiên, chúng
ta đều hiểu rằng”, Bengalski mỉm một nụ cười thông thái, “nói chung nó, cái
gọi là hắc ảo thuật không tồn tại trên thế giới này, và thực chất nó chẳng
phải cái gì khác ngoài nhưng trò mê tín, ở đây chỉ đơn giản là nhà nghệ sĩ
bậc thầy Voland có một trình độ kỹ thuật ảo thuật rất hoàn bị, điều đó chúng
ta sẽ thấy rõ trong phần thú vị nhất của chương trình, tức là phần lật tẩy cái
kỹ thuật đó, và vì tất cả chúng ta ai cũng như ai đều vừa khao khát được trực
tiếp mục kích cả kỹ thuật lẫn sự lật tẩy kỹ thuật đó, xin mời quý ngài
Voland!”
Nói xong một mớ nhảm nhí, Bengalski áp hai bàn tay vào nhau và cởi
mở vung về phía khe hở giữa tấm màn: tấm màn khẽ kêu sột soạt dịch
chuyển sang hai bên.
Sự xuất hiện nhà ảo thuật với tay trợ lý dài ngoẵng và con mèo (nó
bước lên sân khấu bằng hai chân sau) làm cho các khán giả vô cùng thích
thú.
“Ghế bành lại đây!” Voland khẽ ra lệnh, và ngay lập tức, vào đúng giây
đồng hồ ấy, không hiểu từ đâu và bằng cách nào, trên sân khấu xuất hiện
một chiếc ghế bành. Nhà ảo thuật ngồi vào đó, nói:
“Này, Phagot thân mến”, Voland hỏi tay trợ lý hề mặc áo kẻ ô (như vậy
có nghĩa là ngoài cái tên “Koroviev” ra, gã còn có một tên khác nữa), “hãy
nói ta nghe, theo ngươi, dân Moskva thay đổi nhiều lắm phải không?”
Nhà ảo thuật nhìn xuống đám khán giả đang lặng ngắt, sững sờ trước
sự xuất hiện của chiếc ghế bành từ trong không khí.
“Thưa messir, đúng thế ạ”, Phagot-Koroviev đáp khẽ.
“Ngươi nói đúng, dân thành thị thay đổi nhiều về bề ngoài, cũng như
bản thân thành phố ấy. Về trang phục thì không nói làm gì, nhưng đã xuất
hiện những… chúng gọi là gì nhỉ?… tàu điện, xe hơi…”
“Ô tô buýt”, Phagot kính cẩn nhắc.