“Ðiều đó có thể diễn đạt ngắn gọn hơn bằng một từ là lang thang”,
quan Tổng trấn nói, rồi hỏi tiếp: “Có người thân không?”
“Không có ai cả. Tôi một mình trên đời.”
“Biết chữ không?”
“Có ạ!”
“Ngoài tiếng Aramei ra, còn biết thứ tiếng nào khác?”
“Tôi còn biết tiếng Hy Lạp.”
Một mí mắt sưng mọng khẽ nâng lên, một con mắt đục mờ vì đau đớn
nhìn người bị bắt chằm chằm, con mắt kia vẫn nhắm chặt.
Pilat cất giọng hỏi bằng tiếng Hy Lạp:
“Có phải nhà ngươi định phá Ðền Thờ và kêu gọi dân chúng làm như
vậy không?”
Người bị bắt bỗng sôi nổi hẳn lên, đôi mắt không còn tỏ vẻ sợ hãi nữa,
và anh ta nói bằng tiếng Hy Lạp:
“Tôi, hỡi con người nhân…” một nỗi kinh hoàng chợt thoáng qua cặp
mắt người bị bắt vì suýt nữa anh ta lại lỡ lời, “tôi, thưa Ighemon, không bao
giờ trong đời có ý định phá Ðền Thờ và không xúi giục ai làm cái việc vô
nghĩa đó.”
Trên khuôn mặt tên thư ký ngồi còng lưng trên chiếc bàn thấp và ghi
chép lời khai, hiện ra vẻ ngạc nhiên; gã ngẩng đầu lên, nhưng lại lập tức cúi
xuống mảnh giấy da cừu.
“Có vô số loại người khác nhau đổ về thành phố này để đón ngày hội.
Trong số họ có cả phù thủy, thầy chiêm tinh, thầy bói và các bọn giết
người”, quan Tổng trấn nói bằng giọng đều đều, “có cả những kẻ chuyên nói
dối nữa. Nhà ngươi chẳng hạn, là một kẻ nói dối. Ở đây đã ghi rõ: xúi giục
phá Ðền Thờ. Những người làm chứng khai như vậy.”
“Những con người nhân từ đó”, người bị bắt nói và vội vàng thêm,
“Thưa Ighemon”, rồi tiếp: “họ không học được điều gì cả và lẫn lộn hết