hơn.”
“Này, kẻ lang thang, tại sao nhà ngươi lại gây rối loạn trong dân chúng
ở ngoài chợ bằng những lời lẽ về cái chân lý mà chính nhà ngươi chẳng hề
có tí ý niệm nào? Chân lý là cái gì?”
Nói xong, quan Tổng trấn nghĩ thầm: “Ôi, hỡi các vị thần linh! Ta hỏi
hắn về những chuyện hoàn toàn không cần thiết ở trên tòa án… Lý trí của
mình không còn nghe theo mình nữa…”. Và ngài lại thoáng nghĩ đến chiếc
chén với chất lỏng màu đen. “Thuốc độc, thuốc độc cho ta…”.
Và ngài lại nghe thấy giọng nói:
“Chân lý trước hết là ở chỗ hiện giờ ngài đang đau đầu, và đầu của ngài
đau đến nỗi ngài đang hèn nhát nghĩ đến cái chết. Ngài không chỉ không đủ
sức nói với tôi, mà thậm chí chỉ nhìn thôi ngài cũng cảm thấy khó khăn. Và
bây giờ tôi vô tình trở thành đao phủ đối với ngài, điều đó làm tôi khổ sở.
Ngài không thể nghĩ về một cái gì khác mà chỉ mơ ước một điều: gọi con
chó của ngài đến, nó có lẽ là sinh vật duy nhất mà ngài quyến luyến gắn bó.
Nhưng những đau đớn của ngài giờ đây rồi sẽ hết, đầu ngài sẽ đỡ.”
Tên thư ký trố mắt nhìn kẻ bị bắt và không chép hết lời.
Pilat ngước đôi mắt lộ vẻ đau đớn lên nhìn người bị bắt và nhận thấy
mặt trời đã lên khá cao phía trên trường đua ngựa, nắng đã chiếu rọi vào dãy
cột tròn và đang bò dần đến bên đôi dép đã cũ mòn của Iesua, còn anh ta
đang tìm cách đứng tránh ra khỏi các tia nắng.
Quan tổng trấn chợt rời ghế bành đứng dậy, hai tay ôm lấy đầu, trên
khuôn mặt da vàng tái cạo nhẵn của ngài hiện ra vẻ kinh hoàng. Nhưng ngài
lập tức dùng ý chí của mình chế ngự nỗi sợ hãi và lại buông người xuống
ghế bành.
Trong lúc đó người bị bắt vẫn tiếp tục nói, nhưng tên thư ký không ghi
chép gì thêm, mà chỉ vươn dài cổ ra như một con ngỗng, cố không bỏ sót
một lời nào.
“Thế đấy, tất cả đã qua rồi”, người bị bắt nói, nhìn Pilat với vẻ đầy
thiện ý, “và tôi rất vui mừng với điều đó. Tôi muốn khuyên ngài, thưa