Ðám đông dân chúng đáp lại bằng một đợt sóng ồn ào kéo dài có vẻ
như ngạc nhiên hoặc nhẹ nhõm.
Khi tiếng ồn đã lắng xuống, Pilat nói tiếp:
“Nhưng trong số bốn tên chỉ có ba tên sẽ bị hành hình, bởi vì theo pháp
luật và tục lệ, nhân ngày lễ Vượt Qua, một tên trong số những tên đã bị kết
án tử hình, theo sự lựa chọn của Hội đồng Thượng thẩm bản hạt và sự duyệt
y của chính quyền La Mã, sẽ được đức Hoàng Ðế nhân từ ban mạng sống!”
Pilat hét to từng từ, đồng thời lắng nghe tiếng ồn ào lắng xuống dần, rồi
thay vào đó là một sự im lặng hoàn toàn. Bây giờ không còn nghe vẳng đến
một tiếng sột soạt hay tiếng thở mạnh nào, thậm chí có một khoảnh khắc
Pilat cảm thấy như tất cả xung quanh đã vụt biến mất. Thành phố mà ngài
căm ghét chết lặng, chỉ còn một mình ngài đứng đó, dưới ánh nắng mặt trời
thiêu đốt, mặt hướng thẳng lên trời cao. Pilat lắng nghe sự im lặng thêm một
lúc, rồi hét lớn:
“Tên của kẻ bây giờ sẽ được ân xá là…”
Ngài ngừng lại thêm một lát, chưa nói ngay họ tên kẻ được tha, kiểm
tra xem tất cả những điều cần thiết đã được nói hết chưa, vì ngài biết rằng
cái thành phố chết lặng kia sẽ sống lại sau khi tên của kẻ may phúc được nói
ra, và tiếp theo sẽ không ai còn nghe được thêm một từ nào nữa.
“Xong cả chưa?” Pilat thì thầm với mình không thành tiếng. “Xong cả
rồi. Tên ấy là…”
Và ném phụ âm “r” ra như một tràng sấm xuống thành phố đang câm
lặng, ngài gầm lên:
“Var-ravvan!”
Nói vừa dứt lời, Pilat tưởng chừng như mặt trời chợt ngân lên, kêu
loảng xoảng, nổ tung ra và rót lửa vào hai tai ngài. Trong ngọn lửa đó sôi
sục những tiếng gào thét, tiếng rên rỉ, tiếng reo cười, tiếng rú rít.
Pilat quay ngược bước theo bệ đài đi trở lại phía bậc thềm lên xuống,
mắt không nhìn bất cứ một vật gì khác ngoài những viên đá lát nhiều màu
dưới chân để khỏi sảy bước. Ngài biết rằng, giờ đây sau lưng ngài, những