Đầu năm 1984, một nhóm gần năm mươi người thuê nhà chính thức kiện tôi
ở tòa tiểu bang về tội quấy rối họ. Hầu như tất cả những lời than phiền của
họ đều giống y như nhau và không quan trọng, nhưng tôi vẫn bảo người của
tôi lưu ý kỹ. Tháng 1-1985, tiểu bang đồng ý sẽ xem xét vụ kiện của họ.
Họ biết chẳng có một vụ quấy rối thực sự nào cả. Vụ kiện này chỉ là một
mánh khóe để giữ lấy những căn hộ của họ, hay chí ít cũng đòi hỏi tôi đưa ra
một giải pháp có lợi cho họ hơn.
Khi các luật sư của tôi điều nghiên hồ sơ, họ phát hiện một điều rất thú vị.
Trong vòng mười năm, hai mươi năm qua, thậm chí có trường hợp đến ba
mươi năm, nhiều người trong số những người thuê nhà giàu có đã đệ trình
cho các cơ quan của thành phố cùng một loại những lời than phiền giống
như vậy để yêu cầu giảm tiền thuê nhà. Họ đúng là những chuyên gia hàng
đầu thế giới trong nghệ thuật sống với những tiêu chuẩn rất cao nhưng lại trả
chi phí rất thấp.
Tôi không phải là người né tránh dư luận xấu hay dè sẻn từng đồng xu, nhất
là khi tôi nghĩ những cáo buộc của họ là không đúng. Đấu tranh chống lại họ
có thể khiến tôi tốn kém nhiều hơn, và thậm chí phải xem xét lại chiến lược
của mình, nhưng tôi không thể cho phép mình bị đe dọa để phải chấp nhận
một sự dàn xếp lố bịch như họ nghĩ.
Có hai điều thuận lợi cho tôi. Điều thứ nhất, giá trị địa ốc ở New York đã gia
tăng mỗi năm kể từ năm 1974, nhưng đến đầu năm 1981 khi tôi mua hai tòa
nhà ở đại lộ Central Park South thì nó chững lại, và xuống dốc trong hai
năm tiếp theo. Nhiều người nghĩ rằng thời hoàng kim của địa ốc đã chấm
dứt.
Tuy nhiên, đến năm 1984, thị trường trỗi dậy mạnh mẽ dù nền kinh tế vẫn
chưa ổn định. Vào mùa Thu năm 1981, giá trung bình một phòng là 93.000
đô-la; đầu năm 1983, nó giảm xuống còn 67.000 đô-la; nhưng đến tháng 1-
1985 - khi cuộc tranh chấp giữa tôi và những người thuê nhà đang hồi gay
cấn - nó nhảy một phát lên tới 124.000 đô-la.