thiết phải nghi ngờ mọi cái, càng sâu sắc càng tốt”. Khi ông tự hỏi cái gì là
chân lí nền tảng tuyệt đối mà ông có thể chắc chắn, ông đi đến kết luận rằng
bởi vì ông đang nghi ngờ, nên ông chính là đang tư duy, và bởi vì ông đang tư
duy, nên ông chắc hẳn là đang tồn tại. Năm 1637, ông tuyên bố: “Cogito ergo
sum” (“Tôi tư duy, vậy thì tôi tồn tại”).
Bằng việc nghi ngờ mọi cái trừ bản thân việc nghi ngờ, Descartes tin rằng
ông đã tìm ra điểm khởi đầu của một triết thuyết mới. Ông tiếp tục chia thế
giới ra thành các thao tác tinh thần của trí não, đối lập với cái khối vật chất của
cơ thể và nói rằng hai loại ấy là tách rời và biệt lập với nhau. Ông xây dựng
nên một thuyết nhị nguyên chặt chẽ về tinh thần và vật chất, mới đầu cũng có
tác dụng thúc đẩy bước tiến của khoa học, nhưng rồi sau đó đã làm mê muội
các nhà tư tưởng phương Tây đến ba trăm năm tiếp theo. Ông là người theo
quyết định luận, tin rằng mọi cái đều có nguyên nhân của nó. Triết học của ông
dựa trên một hệ thống khớp số và bánh răng cơ khí, miêu tả một vũ trụ của các
nguyên nhân và kết quả. Ông đã coi cơ thể như một cỗ máy; và các nhà khoa
học hiện vẫn đang khảo sát nó “để xem nó chạy thế nào”.
Hệ thống tư duy của Descartes rõ ràng đã giảm thiểu vai trò của một Chúa
Trời có quyền năng can thiệp. Tuy nhiên, Descartes là một người khôn ngoan.
Khi được báo cho biết về rắc rối của Galileo với Tòa án Dị giáo, Descartes đã
viết trong nhật kí riêng: “Mình giờ đây đã leo lên sân khấu của cái thế giới mà
trước kia mình chỉ là một khán giả của nó, nhưng mình đóng vai với một cái
mặt nạ ở trên mặt”. Trong các tác phẩm của ông, Descartes đã trả lại cho Chúa
Trời những cái gì Chúa có, để qua được các nhà kiểm duyệt Vatican; nhưng với
những tranh biện được lập luận rất thông minh, ông đã ngầm đẩy Chúa Trời
dần khỏi vai trò trung tâm mà Chúa đã từng đóng trong giai đoạn lịch sử trước
đó. Descartes dành cho các nhà thần học một lãnh địa bất khả xâm phạm, miễn
nhiễm khỏi sự xâm lấn của khoa học, nhưng để đổi lại, ông đòi hỏi họ không
còn được can thiệp vào sự vận hành của thế giới, cái mà từ nay trở đi sẽ chỉ là
lãnh địa của khoa học.
Trong những cống hiến của ông cho khoa học và triết học, cống hiến bền lâu
nhất là khám phá ra hình học giải tích. Ông đã chứng minh tính đẳng cấu của
hai ngành toán học là đại số và hình học. Hình giải tích đã phiên dịch hoạt
động tính toán trí não trừu tượng thuần tuý nhất (đại số) thành một dạng thức