trình của nhà vật lí. Theo một cách huyền bí nào đó, nghệ sĩ đã làm hiển hiện
trong tác phẩm của mình những nét đặc thù của một mô tả vật lí về thế giới mà
khoa học sau này sẽ khám phá ra.
Người nghệ sĩ biết rất ít hoặc hầu như không biết những gì đang diễn ra
trong lĩnh vực vật lí, nhưng lại có thể gợi lên những hình tượng và những ẩn dụ
thích hợp đến kinh ngạc khi đem chúng áp vào cái khuôn khổ khái niệm mà
nhà vật lí dùng sau đó để xem xét lại các ý niệm của chúng ta về thực tại vật lí.
Rất nhiều lần trong quá trình lịch sử, người nghệ sĩ đã đưa ra các biểu tượng và
hình tượng mà sau này suy xét lại, chúng đã là những biểu trưng tiên phong
cho các hình mẫu tư duy của một kỉ nguyên khoa học còn chưa ra đời. Tiếc
rằng đã ít có nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật bàn bạc một cách thấu đáo về
cái chức năng bí ẩn này của nghệ thuật. Nhà phê bình nghệ thuật Robert
Hughes đã lí giải tại sao nó thường bị bỏ qua:
“Cái cốt lõi của huyền thoại tiên phong nằm ở
chỗ người nghệ sĩ chính là một người đi trước.
Một tác phẩm nghệ thuật thực sự có ý nghĩa là
tác phẩm chuẩn bị cho tương lai. Nhưng trọng
tâm chú ý của nền văn hóa, trái lại, thường có
khuynh hướng coi cái hiện tại (người nghệ sĩ
đang sống) chính là đỉnh cao của quá khứ”.
Khi đọc về tác phẩm của các nghệ sĩ bậc thầy, chúng ta quá thường xuyên
được nghe nói về các phong cách quá khứ đã ảnh hưởng tới họ như thế nào.
Phả hệ nghệ thuật của họ được truy ngược lên đến các nghệ sĩ tiền bối, và hiếm
khi tác phẩm của họ được lí giải đã tiên đoán tương lai ra sao.
Một bộ phận khá lớn của xã hội hiện nay, do không thể hiểu nổi con mắt
viễn kiến của nghệ thuật nên đã gạt bỏ tầm quan trọng của nó. Marshall
McLuhan, trong tác phẩm có ảnh hưởng sâu xa của mình Hiểu thấu các
phương tiện biểu đạt, đã đặt ra rất nhiều câu hỏi:
“Nếu con người ta có thể bị thuyết phục để tin
được rằng nghệ thuật là sự hiểu biết trước một
cách chính xác về cách phải đối phó thế nào với