tạo ra trong hình học Euclid hay không; họ thậm
chí còn dám mơ đến hai đường thẳng song song,
là thứ mà theo Euclid sẽ không bao giờ gặp nhau
trên trái đất, có thể sẽ gặp nhau tại một nơi nào
đó ở vô tận. Tôi đã đi đến kết luận rằng, bởi vì
tôi không thể hiểu được điều như vậy, nên tôi
cũng không trông mong gì về chuyện hiểu được
Chúa Trời. Tôi phải công nhận một cách hèn
kém rằng mình không đủ tư chất để giải quyết
những câu hỏi kiểu như vậy. Tôi chỉ có một trí
não trần tục kiểu Euclidian (nguyên văn), và làm
sao mà tôi có thể giải quyết nổi các vấn đề không
thuộc về thế giới này cơ chứ?”
Bằng việc thừa nhận rằng nhà viết tiểu thuyết có ảnh hưởng đến mình lớn cả
hơn người khám phá ra loại hình học phi Euclid đầu tiên, Einstein ngầm công
nhận Fyodor Dostoyevsky là nhân vật lớn đầu tiên trong giới văn chương đã
bàn đến cả chiều thứ tư lẫn hình học phi Euclid. Như chúng ta rồi sẽ thấy, hai ý
niệm này từ hai khối quặng vàng thô sẽ trở thành các vương miện của cả thuyết
tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng.
Giai thoại này dùng để giới thiệu quan niệm cho rằng văn chương, giống
như những chị em khác của nó là âm nhạc và các nghệ thuật tạo hình, đã dự
cảm được những thay đổi lớn lao mang tính cách mạng trong thế giới quan của
nhà vật lí. Bên cạnh mối quan hệ giữa vật lí và văn học là điều mà chúng ta sẽ
khảo sát trong chương này, còn có một sự tương đồng rất chặt chẽ, đầy đủ cứ
liệu chứng minh, giữa các loại hình nghệ thuật ngôn từ và thị giác mà người ta
có thể dò tìm ngược lại được từ thế kỉ thứ bảy đến thế kỉ thứ tư trước CN ở Hi
Lạp cổ đại. Khi ấy, ba hình thức văn chương mới - thi ca, chính kịch và đàm
luận triết học - đã nổi lên ở phương Tây xấp xỉ ở thời điểm mà điêu khắc, hội
họa và kiến trúc bắt đầu nở rộ. Khi các nhà triết học tự nhiên Hi Lạp là những
người đầu tiên xem xét và phân tích các diễn biến vật lí của thế giới, vận hành
độc lập với những cơ cấu và các sự can thiệp của tất cả các thần, cả nam lẫn
nữ, thì cũng tương tự như vậy, ở trong các nghệ thuật thị giác, truyền thống cổ
điển Hi Lạp đã đưa ra ý tưởng cách mạng cho rằng chức năng chủ yếu của