nghệ thuật là làm mãn nhãn người xem, hơn là làm vui lòng một vị tiên thần
nào đó. Những suy xét mĩ học của nền văn hóa cổ điển rõ ràng là đã lấn át
những suy xét tôn giáo. Tương tự như vậy, đã tồn tại một điều kiện tiên quyết,
trước khi các hình thái nghệ thuật văn chương có thể phát triển được. Thi ca và
kịch nghệ Hi Lạp ra đời bắt nguồn từ một công nhận ngầm rằng người kể
chuyện đang hư cấu. Ở những nền văn minh khác, các bản anh hùng ca và các
câu chuyện kể đều dựa trên huyền thoại tôn giáo hay truyền thuyết của bộ tộc,
và người nghe cho rằng câu chuyện thực sự là có thật. Nhưng kể từ lúc Homer
cung cấp cho những người nghe của ông bản miêu tả được tô điểm hoa mĩ về
cuộc chiến thành Troy và tiếp tục đến khi nhiều nhà văn Hi Lạp đã thực sự tạo
ra các câu chuyện không hề dựa trên cơ sở sự thật, thì toàn bộ nền văn học và
kịch phương Tây đã tuôn chảy từ nguyên lí cơ bản quy định rằng một tác giả
có thể được phép bịa ra chuyện. Trong khi sự nghi ngờ sáng suốt - cái quyền
được ngờ vực chân lí - đã trở thành nền móng của mọi khoa học, thì điều tương
phản tuyệt đối của nó, mà ta có thể gọi là một thứ môn bài của thi ca - cái
quyền được tạo tác ra chân lí - đã trở thành xương sống của toàn bộ văn học.
Thái độ “sẵn lòng đình chỉ hồ nghi” mà Coleridge hô hào một người đọc cần
có, chính là lời giải thích nổi tiếng nhất thời hiện đại về truyền thống đầy tính
nghệ thuật đã tiếp diễn dài lâu này.
Người La Mã đã tiếp tục duy trì truyền thống Hi Lạp, gò ép các sáng tạo của
mình vào trong những hình thức của Hi Lạp mà họ coi là kiểu mẫu. Mặc dù
kéo dài một cách khác thường, nhưng kỉ nguyên Đại La Mã vì một lí do bí
hiểm nào đó đã không kích thích được trí tưởng tượng của các nhà viết kịch.
Một bằng chứng cho tính cách thực dụng La Mã là số lượng nhà hát ngoài trời
của La Mã thực tế nhiều hơn số lượng nhà viết kịch La Mã mà người ta có thể
nhớ được.
Vào những năm cuối cùng trong thời của mình, Đế chế La Mã đã bị mất các
thuộc địa sản xuất ra giấy sậy cho nó. Kết quả là giấy viết bị thiếu ghê gớm,
dẫn tới việc suy giảm thông tin giữa các địa đầu xa xôi của đế chế. McLuhan
cho rằng nhân tố chủ chốt xô La Mã trượt xuống con dốc trơn tuột dẫn đến
thảm họa chính là sự suy giảm của lời nói được ghi thành văn tự này, "Bởi
chưng con đường La Mã chính là con đường giấy, hiểu theo mọi nghĩa của
nó”.