ràng sẽ được nhìn nhận một cách khác; chúng
hiển nhiên không được ông ta coi là đã hoàn
chỉnh và hoàn thành. Nhưng trong những ngày
trước khi có phát minh ra máy in, sự phân định
này đã không hề rạch ròi được như vậy. Người ta
cũng không thể dễ dàng xác định được rằng một
bản viết tay nào đó của tác giả đã khuất kia là
sáng tạo của chính ông ta, hay là bản ông ta chép
lại tác phẩm của một người khác. Ở đây, chúng
ta rõ ràng có một nguồn phong phú của tính mơ
hồ và vô danh về tác giả của vô số bản viết thời
Trung cổ”.
Các nhà văn thời Trung cổ đã không hề duy trì một “quan điểm” nhất quán
trong tác phẩm của mình, với ví dụ điển hình là cuốn Những câu chuyện
Canterbury của Chaucer ở thế kỉ mười bốn. Có ba người kể chuyện trong tác
phẩm của Chaucer: người hành hương, thi sĩ và gã đàn ông. Với người đọc
hiện đại, thật vất vả và đôi lúc lẫn lộn khi Chaucer liên tục hoán đổi vai trò ba
người kể chuyện này với nhau, tất cả đều tình cờ hiện hình thành cùng một con
người vật chất trong không gian. Tuy nhiên, kiểu viết phi tuyến tính đi kèm sự
đa bội về quan điểm này đã không tha cho người đọc khỏi việc phải phân biệt
những người kể chuyện với nhau.
Đọc Erasmus, người có tác phẩm Ca ngợi chàng Khờ nằm trong khoảng
giữa hai thời kì Trung cổ và Phục hưng, cũng khó khăn tương tự. Mặc dù
Erasmus là người đồng thời với Gutenberg và là nhà văn đầu tiên nhận ra được
sức mạnh của ngôn từ được in thành văn bản, nhưng phong cách của ông vẫn
giữ nguyên gốc rễ từ hình mẫu Trung cổ, được thể hiện rõ nhất qua tranh ghép
mảnh trong nghệ thuật. Trong văn xuôi của ông, không có cái gọi là “quan
điểm” duy nhất, Chàng Khờ là đối lập với chàng Khôn, ấy vậy mà khi người ta
đọc tác phẩm châm biếm chua cay này, khó mà phân biệt ai là người đang nói:
lúc thì là Khờ, lúc lại là Khôn, và nhiều khi hình như chính cả bản thân
Erasmus nữa.
Mãi đến thế kỉ mười sáu, một ví dụ cho kiểu viết này vẫn xảy ra trong đoạn
trích điển hình sau đây của nhà văn Thomas Nashe: