cơ bản ấy là một thứ chân lí tiềm thức đến mức hiếm có ai lại nghĩ đến chuyện
để tâm đến vấn đề ấy.
Trong hồi kí của mình, Einstein nói rằng cái giây phút khi tất cả những mối
liên hệ ấy đột ngột kết thành một khối trong đầu ông, là “phút giây suy nghĩ
hạnh phúc nhất đời tôi”. Trong một bài giảng nhiều năm sau, ông nhớ lại
chuyện đã xảy ra như thế nào:
“Tôi đang ngồi trên ghế trong cơ quan cấp bằng
sáng chế ở thành phố Bern, thì đột nhiên nảy ra ý
nghĩ: nếu như một người bị rơi tự do, thì anh ta
sẽ không cảm thấy trọng lượng của chính mình.
Tôi sững sờ. Ý nghĩ đơn giản này đã tạo ra một
ấn tượng rất sâu sắc trong tôi. Nó buộc tôi phải
suy nghĩ tìm ra một lí thuyết về hấp dẫn,”
Trong quá trình vạch ra các mối quan hệ tương hỗ giữa không gian, thời
gian, năng lượng và khối lượng, Einstein đã nhìn xuyên qua được cái mặt nạ ảo
ảnh muôn mặt đang che khuất sự thống nhất thật sự của vũ trụ. Thuyết tương
đối rộng đã miêu tả bằng các chi tiết toán học việc vật chất “bảo” không-thời
gian phải cong như thế nào và không-thời gian bị uốn cong “bảo” vật chất phải
xử sự ra sao. Mối quan hệ tương hỗ giữa hai thực thể mới này của Einstein có
nghĩa rằng mỗi thực thể đã thông báo cho thực thể kia về những tính chất mà
chúng cần thể hiện. Nhị nguyên có tính bổ sung này, hay là sự tương tác giữa
không-thời gian và khối lượng-năng lượng, tạo thành kết quả là một lực mà
chúng ta gọi là lực hấp dẫn trong thế giới ba chiều của chúng ta. Ý tưởng này
chính là tâm hồn và trái tim của thuyết tương đối rộng. Abraham Pais, một nhà
viết tiểu sử của Einstein, nói: “Nếu như công trình năm 1905 ngang tầm với
Mozart, thì công trình 1907-1915 đã gợi ta nhớ đến Beethoven”.
Ví dụ, chúng ta thông thường không cho rằng trọng lượng của một quả táo
sẽ phụ thuộc vào không gian và thời gian tồn tại của nó. Nhưng thực sự đó là
bí quyết đứng đằng sau màn trình diễn ảo thuật mà ta gọi là thực tại. Ngược lại,
mặc dù là vô cùng bé nhỏ, nhưng quả táo đã uốn cong không thời gian ngay sát
chung quanh nó.