người vốn vẫn có cuộc sống dễ dàng thì chẳng sao. Như vậy, chúng ta phải
chuyển sang tình huống thứ hai trong hai tình huống mà chúng ta đã phân
biệt ở trên - đó là tình huống những người được sống trong một môi trường
dễ dàng và chưa bao giờ, theo như kiến thức của chúng ta, đặt chân vào
một môi trường sống nào khác. Trong trường hợp này, nhân tố quấy rối sự
tiến hóa bị loại trừ, và chúng ta hoàn toàn có thể nghiên cứu tác động của
các điều kiện sống dễ dàng. Sau đây là một bức tranh xác tín của nó từ
Nyasaland, theo một nhà quan sát Tây phương cách đây nửa thế kỷ:
“Như những tổ chim giấu mình trên cây, trong nỗi khiếp sợ
lẫn nhau và khiếp sợ kẻ thù chung là những tay buôn nô lệ,
những ngôi làng nguyên thủy nhỏ bé ẩn nấp trong những cảnh
rừng già sâu hun hút. Và ở đây, trong túp lều hết sức đơn giản của
mình, một người nguyên thủy - không quần áo, không văn minh,
không học hành, không tôn giáo - đứa con trần trụi của thiên
nhiên, vô tư lự và mãn nguyện. Con người này có vẻ hoàn toàn
hạnh phúc; anh ta thực sự không mong mỏi gì cả. … Người Phi
châu thường bị chê trách là lười biếng, nhưng đó là một cách
dùng từ sai. Anh ta không cần phải làm việc; với thiên nhiên
phong phú như thế ở chung quanh thì anh ta chẳng có lý do gì
phải làm việc cả. Do đó, sự lười biếng của anh ta, như chúng ta
vẫn thường gọi, chẳng qua chỉ là một phần bản chất của anh ta, tự
nhiên và cố hữu giống như cái mũi tẹt, và không đáng bị chê
trách hơn so với sự chậm chạp của loài rùa”.
Charles Kingsley, nhà đạo đức học thời Nữ hoàng Victoria, khi nghiên
cứu về lối sống tích cực đã viết một câu truyện nhỏ gọi là “Lịch sử về xứ sở
vĩ đại và nổi tiếng của những kẻ thích gì làm nấy, đã rời bỏ xứ sở làm lụng
vất vả để suốt ngày gẩy đàn Harp của người Do Thái”. Cuối cùng, họ phải
trả giá với việc thoái hóa thành khỉ đột.
Thật buồn cười khi xem xét những quan điểm khác nhau về “vùng đất
lạc thú” được thể hiện qua thi ca Hy Lạp cổ cũng như tác phẩm của nhà đạo
đức học Tây phương cận đại nói trên. Đối với thi ca Hy Lạp cổ, những