chúng ta sẽ phải quay trở lại với kết luận “bị sát hại” đối với danh sách
những cái chết mà đến nay chúng ta vẫn luôn chẩn đoán là tự sát. Tuy
nhiên, chúng ta có thể thấy rằng bước ngoặt sinh tử trong lịch sử Cơ Đốc
Chính thống không phải là cuộc tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ trong các
thế kỷ 14 và 15, không phải cuộc đột kích của người Latinh trong thế kỷ
13, và cũng không phải cuộc chinh phạt thủ phủ Anatolia trong cơn bão
người Thổ xâm lược (Saljuq) trước đó vào thế kỷ 11, mà là một sự kiện
thuần túy nội bộ xảy ra trước tất cả những sự kiện nói trên: cuộc đại chiến
giữa hai đế chế La Mã (phương Đông) và Bulgaria từ năm 977-1019. Cuộc
xung đột huynh đệ tương tàn giữa hai thế lực lớn của thế giới Cơ Đốc
Chính thống lần này không chịu dừng lại, cho tới khi một bên bị xóa sổ
khỏi bản đồ chính trị, còn bên kia cũng nhận lãnh những vết thương chí
mạng đến nỗi, ta có đầy đủ lý do để cho rằng, nó không bao giờ có thể phục
hồi.
Khi Ottoman Padishah Mehmed II chinh phạt Constantinople vào năm
1453, nền văn minh Cơ Đốc Chính thống vẫn chưa bị kết liễu. Và một
nghịch lý đáng ngạc nhiên đã xảy ra, khi kẻ chinh phục ngoại quốc đã cung
cấp cho nạn nhân của mình một nhà nước trung ương. Mặc dù giáo hội Cơ
Đốc của Haghia Sophia đã trở thành một thánh đường Hồi giáo, song nền
văn minh Cơ Đốc Chính thống vẫn tiếp tục sống nốt quãng đời còn lại của
nó, rất giống với nền văn minh Ấn giáo vẫn sống sót dưới một chính quyền
trung ương khác của người Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập bởi Mughal Akbar
một thế kỷ sau, và tiếp tục tồn tại dưới chế độ thuộc địa Anh. Nhưng rồi
quá trình phân rã và sự khởi đầu thời kỳ Völkerwanderung đã khiến nó rơi
vào phần Đế chế Thổ Ottoman trùng khớp với lãnh thổ của xã hội Cơ Đốc
Chính thống. Người Hy Lạp, người Serb, và người Albania rõ ràng là đã có
những hành động xâm lấn trước khi thế kỷ 18 kết thúc. Vì sao những động
thái xâm lược này không đưa tới kết quả là một “chiến thắng của người rợ
và tôn giáo” như chúng ta đã thấy trong giai đoạn cuối của xã hội Hy Lạp
cổ, Trung Hoa cổ và những xã hội khác?