nhập của người Arya du mục gốc Âu-Á vào lãnh địa văn hóa Ấn Độ vào
nửa đầu thiên niên kỷ thứ hai trước CN.
Chế độ đẳng cấp này không liên quan đến tôn giáo. Ở Mỹ và Nam Phi
(nơi người da đen từ bỏ đạo ông bà và nhập đạo Cơ Đốc của người châu Âu
thống trị), sự chia rẽ giáo phái làm nảy sinh sự chia rẽ chủng tộc, cho dù
những thành viên da trắng và da đen của mỗi giáo phái được tách ra trong
nghi lễ thờ cúng như trong những hoạt động xã hội khác. Trái lại, ở Ấn Độ,
chúng ta có thể phỏng đoán ngay từ đầu rằng các đẳng cấp được phân biệt
với nhau sự khác biệt của nghi thức hành lễ tôn giáo. Sự phân biệt tôn giáo
càng lộ rõ khi nền văn minh Ấn Độ theo xu hướng tôn giáo truyền lại cho
đời sau. Rõ ràng tác động của tôn giáo lên chế độ đẳng cấp đã làm trầm
trọng thêm tính xấu xa của chế độ này. Chế độ đẳng cấp mấp mé trở thành
tội ác xã hội, nhưng khi được tôn giáo giải thích và thừa nhận, nó lại xấu xa
gấp bội.
Tác động của tôn giáo lên chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ đã sinh ra từ ngữ
lăng mạ tiện dân, và người Bà La Môn (giai cấp thượng đẳng của toàn bộ
chế độ đó) chẳng có biện pháp hữu hiệu nào để thủ tiêu hay thậm chí giảm
nhẹ tiếng tiện dân. Cái ác này vẫn tồn tại, trừ phi có một cuộc cách mạng
phá bỏ.
Cuộc nổi dậy sớm nhất chống lại chế độ đẳng cấp là của Mahavira,
người sáng lập ra Jains (Kỳ-na) giáo và Phật giáo cách đây khoảng 500
năm trước CN. Nếu đạo Jains hay đạo Phật thu phục được thế giới Ấn Độ,
chế độ đẳng cấp có lẽ đã bị thủ tiêu. Tuy nhiên, Ấn giáo (một thuyết hổ lốn
về những cái cũ và cái mới, trong đó hệ thống đẳng cấp đã được Ấn giáo
hồi sinh) đóng vai trò là giáo phái chung trong chương cuối suy tàn và sụp
đổ của Ấn Độ. Không hài lòng với việc giữ lại từ thóa mạ cũ này, Ấn giáo
đã trau chuốt nó, và nền văn minh Ấn giáo đã không ngóc đầu lên được
trước gánh nặng đẳng cấp hơn cả trước đây.
Trong lịch sử của nền văn minh Ấn giáo, các cuộc nổi dậy chống lại
chế độ đẳng cấp biểu hiện dưới hình thức ly khai khỏi Ấn giáo trước sức
hấp dẫn của một số tôn giáo ngoại lai. Một số cuộc ly khai do những người