nhập đội quân này. Tầng lớp bị trị quốc nội Hy Lạp tăng lên theo các cuộc
chinh chiến của người Macedonia, quét hết xã hội Syria, Ai Cập, và
Babylon vào lưới của thiểu số thống trị Hy Lạp, những cuộc chinh phục sau
này của người La Mã quét phân nửa tộc người rợ ở châu Âu và Bắc Phi.
Số người ngoại quốc không chủ tâm gia nhập tầng lớp bị trị quốc nội
Hy Lạp ban đầu có thể may mắn hơn người vô sản gốc Hy Lạp ở một khía
cạnh. Mặc dù bị tước quyền thừa kế về mặt tinh thần lẫn vật chất, nhưng họ
chưa bị buộc rời bỏ quê hương. Tuy nhiên, đi theo gót chân quân xâm lược
là nạn buôn bán nô lệ, và hai thế kỷ cuối trước CN chứng kiến toàn bộ dân
cư dọc bờ biển Địa Trung Hải – cả người rợ phương Tây lẫn người phương
Đông có học thức – đều bị bắt đóng góp nhằm đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động nô lệ ở Ý.
Tầng lớp bị trị quốc nội của xã hội Hy Lạp đang tan rã gồm ba thành
phần rõ rệt: thành viên trong xã hội bị tước quyền thừa kế và buộc rời bỏ
quê hương; thành viên bị tước quyền thừa kế một phần và xuất thân từ nền
văn minh ngoại quốc và xã hội nguyên thủy bị chinh phục và khai thác
chưa tận gốc; và người đến tuổi đi lính không những bị buộc rời bỏ quê
hương mà còn biến thành nô lệ để làm việc tới chết ở những thuộc địa xa
xôi hẻo lánh. Nỗi thống khổ của ba nhóm nạn nhân kể trên tuy khác nhau
nhưng chung nỗi niềm bị tước đoạt quyền thừa kế và biến thành người bị
xã hội ruồng bỏ.
Nói đến phản ứng trước số phận của những nạn nhân của sự bất công,
chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi biết một trong những phản ứng của họ
là tỏ ra tàn bạo hơn kẻ áp bức bóc lột mình. Người Ai Cập nổi dậy chống
lại chế độ bóc lột; người Do Thái nổi dậy chống lại chính sách Hy Lạp hóa
của người La Mã, từ cuộc khởi nghĩa của Judas Maccabaeus vào năm 166
trước CN đến hy vọng hão huyền cuối cùng dưới thời lãnh đạo của Bar
Kokaba vào năm 132-135 sau CN. Ngoài ra, còn có một loạt cuộc nổi dậy
của nô lệ ở Sicily và Nam Ý, lên tới đỉnh cao khi đấu sĩ bỏ trốn Spartacus
đi khắp bán đảo Ý và thách thức người La Mã từ năm 73 đến năm 71 trước
CN.