không thể tự cứu rỗi bản thân, anh ta vẫn có thể được xem là một phương
tiện cứu rỗi cho những người khác. Bergson đã từng chứng kiến điều đó.
“Một người thầy xoàng, nếu truyền dạy đúng những nguyên
lý của một môn khoa học do các thiên tài tạo ra, vẫn có thể đánh
thức trong tâm hồn một trong các học trò của ông ta thiên hướng
mà ông ta chưa bao giờ tìm thấy ở bản thân mình”.
Và nếu như thứ “nghệ thuật thương mại” của thế giới Hy Lạp cổ đang
tan rã đã thực hiện được kỳ công đáng ngạc nhiên là đánh thức nghệ thuật
sáng tạo tột bậc của Phật giáo Đại thừa thông qua sự va chạm của nó với
kinh nghiệm tôn giáo của một thế giới đang tan rã khác trên đất Ấn Độ cổ,
thì chúng ta không thể tuyên bố một cách võ đoán rằng phong cách “hộp
sô-cô-la” Tây phương hiện đại không có khả năng tạo ra phép màu tương tự
khi nó xuất hiện trên vô số bảng quảng cáo lớn nhỏ trên khắp địa cầu.
(c) Ngôn ngữ chung
Trong lĩnh vực ngôn ngữ, cảm giác lẫn lộn được bộc lộ qua sự thay
đổi từ các thứ tiếng phân biệt theo địa phương sang các ngôn ngữ chung lẫn
lộn.
Mặc dù sự hình thành ngôn ngữ là nhằm mục đích phục vụ như một
phương tiện giao tiếp giữa con người với nhau, song tác động xã hội của nó
trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay, trên bình diện tổng thể, thực sự là
chia rẽ loài người chứ không phải là thống nhất; bởi lẽ các ngôn ngữ đa
dạng đến mức những thứ tiếng được sử dụng rộng rãi nhất cũng không thể
bao trùm nhiều hơn một phần nhỏ của nhân loại, và sự khó hiểu trong lời
nói chính là dấu hiệu xác nhận một “người ngoại quốc”.
Ở các nền văn minh đang tan rã, đến một mức độ nhất định của tình
trạng suy sụp, chúng ta có khuynh hướng nhận thấy các ngôn ngữ – theo
chân những người sử dụng chúng như tiếng mẹ đẻ – dấy lên những cuộc
chiến cốt nhục tương tàn, và ngôn ngữ nào chiến thắng sẽ giành được lãnh
địa rộng lớn hơn từ tay địch thủ chiến bại. Chẳng hạn như, nếu có chút ít sự
thật lịch sử nào trong truyền thuyết về sự hỗn độn các thứ tiếng trên đất
Shinar dưới chân ngọn tháp cổ xây dở dang trong thành phố hiện đại Babel,