bên trong lẫn về hình thức bên ngoài. Chỉ có Cơ Đốc giáo biểu đạt thành
công tín ngưỡng của mình qua ngôn ngữ triết học Hy Lạp.
Trong lịch sử Cơ Đốc giáo, quá trình Hy Lạp hóa một tôn giáo có
nguồn gốc sáng tạo từ nền văn minh Syria đã được tiên báo qua việc sử
dụng ngôn ngữ Attic, thay vì tiếng Syria, làm phương tiện chuyển tải ngôn
ngữ trong kinh Tân ước; vì mỗi từ ngữ của loại ngôn ngữ tinh vi này đều
hàm chứa vô số ẩn ý triết học.
“Trong sách Phúc âm, Jesus được coi là Con trai của Chúa
Trời, và niềm tin này tiếp tục được duy trì và đào sâu thêm trong
sách Phúc âm thứ tư. Nhưng phần mở đầu của sách Phúc âm thứ
tư cũng nêu lên quan điểm Đấng Cứu Thế của thế giới này là một
Ngôi thứ hai sáng tạo của Thiên Chúa. Như vậy mặc dù Phúc âm
không nói rõ, song chắc chắn là Con trai của Thiên Chúa và Ngôi
thứ hai của Thiên Chúa là một và chỉ một: người Con trai với tư
cách là Ngôi thứ hai được đồng nhất với kiến văn và mục đích
sáng tạo của Thánh thần, Ngôi thứ hai với tư cách Con trai được
tách bạch thành một con người bên cạnh Chúa Cha. Tại điểm này
triết lý về Ngôi thứ hai đã trở thành một tôn giáo”.
Công cụ truyền giáo bằng ngôn ngữ triết học này là một trong những
báu vật gia truyền mà Cơ Đốc giáo thừa kế từ Do Thái giáo. Chính Philo,
triết gia Do Thái của thành Alexandria (khoảng 30 trước CN – 45 sau CN)
là người đã gieo hạt mầm cho các đồng bào Cơ Đốc giáo của ông, Clement
và Origen, thu hoạch một vụ mùa bội thu vào hai thế kỷ sau; và có thể cũng
chính từ mảnh đất này mà tác giả của cuốn Phúc âm thứ tư đã chứng kiến
Ngôi thứ hai thần thánh mà ông ta đồng nhất với hiện thân Thiên Chúa của
mình. Không nghi ngờ gì việc người tiên phong trong số các tổ đạo Cơ Đốc
giáo Do Thái ở Alexandria đã tiếp cận được con đường triết học Hy Lạp cổ
qua cánh cổng của ngôn ngữ Hy Lạp; bởi lẽ hiển nhiên không phải vô tình
mà Philo đã sống và làm việc trong một thành phố mà ngôn ngữ Attica đã
trở thành ngôn ngữ mẹ đẻ của một cộng đồng Do Thái địa phương đã hoàn
toàn mất kiểm soát đối với tiếng Hebrew, và thậm chí cả tiếng Syria, đến