– trái ngược với chủ nghĩa Vị lai và hoài cổ – là những ví dụ của tình trạng
“dịch chuyển phạm vi hoạt động” từ vĩ mô sang vi mô vốn đã tự khẳng
định rất rõ ràng trong hiện tượng tâm linh mà chúng ta gọi là “siêu thực
hóa”. Nếu chúng ta đúng khi tin rằng sự dịch chuyển và siêu thực hóa là
những dấu hiệu của quá trình phát triển, và rằng mọi ví dụ về sự phát triển
của con người đều mang diện mạo xã hội bên cạnh diện mạo cá nhân, và
nếu chúng ta nhận xét một cách chủ quan rằng xã hội chứng kiến những
động thái tự cô lập và biến hình trong giai đoạn phát triển của nó không thể
là bất kỳ xã hội nào thuộc các loại mà chúng ta vẫn gọi là các nền văn minh
– xét rằng một xã hội đang phân rã thuộc những loại này là một thành phố
điêu tàn trong đó những động thái kể trên chỉ là một nỗ lực để đào thoát –
thì chúng ta chỉ có thể kết luận rằng các động thái tự cô lập và biến hình chỉ
xuất hiện trong giai đoạn phát triển của một hoặc những xã hội thuộc về
một hoặc những loại khác.
Vậy một hay hai là con số thích hợp để chỉ số trạng thái trung gian của
xã hội mà hai động thái của chúng ta chiếm chỗ? Cách tốt nhất để tiếp cận
câu hỏi này có lẽ là đặt một câu hỏi khác: đâu là điểm khác biệt giữa sự tự
cô lập và phép biến hình theo khái niệm phát triển xã hội? Câu trả lời rõ
ràng là, trong khi sự tự cô lập đơn giản là một động thái rút lui triệt để, thì
phép biến hình là một động thái phức hợp gồm có sự rút lui theo sau là sự
quay trở lại. Động thái phức hợp này được minh họa trong cuộc đời của
Chúa Jesus qua sự rút lui vào vùng hoang sơ trước khi quay trở lại ở
Galilee, và trong cuộc đời của thánh Paul qua thời gian tạm trú ba năm ở Ả
Rập trước khi ông thực hiện những chuyến thuyết giáo quan trọng để đưa
tôn giáo mới ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của nó là đất Syria đến thẳng
trái tim của thế giới Hy Lạp cổ. Nếu người sáng lập Cơ Đốc giáo và vị
thánh tông đồ truyền giáo của Ngài bổ sung tên mình vào danh sách các
nhà hiền triết tự cô lập thì họ đã ở lại vùng đất hoang sơ suốt phần đời còn
lại của họ trên trái đất. Điểm hạn chế của triết lý tự cô lập là nó không nhận
thức được rằng cõi Niết bàn không phải là đích đến cuối cùng của chuyến
du hành của tâm hồn mà chỉ đơn giản là một “ga” trung chuyển trên đường