ấy? Nếu lấy một bản khác thay thế những phần thiếu ấy thì như vậy sẽ tạo ra
một sự lắp ráp, chắp vá khó chấp nhận.
Vậy là không thể có được hoàn chỉnh một văn bản Số đỏ vốn được in
ngay trong sinh thời tác giả để làm bản nền cho việc khảo sát dị bản.
Đành phải chọn làm bản nền một trong số những bản in sau khi tác
giả đã mất, tức là trong số những bản in không có sự tham dự hoặc sự chấp
nhận trực tiếp của tác giả.
Trong số những bản Số đỏ được in ra từ sau khi tác giả Vũ Trọng
Phụng mất (13.10.1939), tôi chọn làm bản nền bản sách Số đỏ do nhà xuất
bản Minh Đức in năm 1946 tại Hà Nội.
Đây là bản in gần nhất so với hai bản in đương thời tác giả Vũ Trọng
Phụng kể trên. Vì vậy, khả năng sai biệt so với hai bản in đầu có thể là được
hạn chế ở mức thấp. Các hoạt động của nhà xuất bản Minh Đức xung quanh
việc in lại tác phẩm này vào năm 1946 − cũng như vào năm 1957 về sau −
cho thấy họ không chỉ thể hiện sự trân trọng rõ rệt đối với di sản ngòi bút
của nhà văn, mà đồng thời còn quan tâm đến lợi ích của thân nhân tác giả.
Dù người ta không ghi nhận việc thân nhân nhà văn quá cố có can dự hay đề
xuất yêu cầu gì đối với nhà xuất bản xung quanh việc in lại tác phẩm của
nhà văn, thì hoạt động của nhà Minh Đức cũng cho thấy những người có
quyền thừa kế di sản của nhà văn Vũ Trọng Phụng đã có can dự ít nhiều vào
việc in lại tác phẩm, điều mà hầu như khó thấy hơn khi nhà Mai Lĩnh thực
hiện in lại tác phẩm này. Tất nhiên ta không thể từ thái độ của nhà xuất bản
để đặt niềm tin vào chất lượng ấn phẩm; điều có thể thấy rõ ở đây là sự
nghiêm túc của nhà xuất bản trong sự tiếp cận di sản sáng tác của tác giả,
chính nó hứa hẹn một sự nghiêm túc trong xử lý văn bản in.
Tất nhiên, việc chọn bản nào làm “nền” để khảo sát tình trạng dị bản
nảy sinh ra sao trong quá trình truyền bản của một tác phẩm, không có nghĩa
là xem bản nền ấy như một văn bản “lý tưởng”.