Gabi và Boyd phó mặc cho Lóng Lánh lo việc dọn dẹp hồ sơ và soạn ra
một danh sách những cái tên để tiếp tục điều tra, còn hai người họ ra ngoài
đi bộ theo con đường mà Daveyton có lẽ đã đi để đến trạm xe buýt.
Mặt trời chiếu lờ mờ, bầu trời là một màu xanh bạc thếch. Họ đi ngang
qua một đại lý bán xe cũ, một cây xăng, một bãi đất trống, một xác nhà cháy
rụi của một trường đại học trước kia, mái nhà cháy xém nhường chỗ cho
những viên gạch đỏ và dây thường xuân mọc lên. Một bức tranh quảng cáo
dán trên cửa sổ trống hứa hẹn đổi tiền mặt lấy vàng.
“Có quá nhiều nơi để có thể tóm lấy ai đó và lôi họ vào trong,” Boyd
nhận xét. “Chúng ta sẽ còn phải quay trở lại đây.”
“Chúng ta đã gọi điện cho công ty xe buýt để hỏi thăm người tài xế nhớ
mặt Daveyton chưa?”
“Tôi sẽ bảo con cún cưng của chị làm việc đó.”
“Ác mồm quá, Bob,” Gabi rầy, nhưng đúng là Lóng Lánh có cái sự hớn
hở như một con cún ve vẩy đuôi khiến người khác không chòng ghẹo không
được. “Khá nhiều xe cộ đấy,” cô kiểm tra đồng hồ. “Đang giờ ăn trưa.
Không biết lúc ba giờ chiều ngày thứ Sáu thì như thế nào.”
“Yên tĩnh hơn.”
Họ đến chỗ trạm chờ xe buýt - tấm kính cường lực trầy xước đầy vết
viết vẽ, bám đọng toàn nước mưa và bụi. Băng ghế gỗ được chia làm bốn
chỗ ngồi có chấn song bằng kim loại để ngăn không cho người ta nằm
xuống ngủ. Mặt gỗ đầy những vết khắc thô thiển kiểu mấy chữ cái viết tắt
tên và những từ chửi thề. Chỗ ngồi ở cuối đã mất vài thanh gỗ. Vài mẩu
thuốc lá hút đến tận đầu lọc quăng bừa bãi khắp mặt đất. Boyd nhìn săm soi
đường phố, trái rồi phải, ngó chừng khu chung cư ọp ẹp phía bên kia đường,
khu đậu xe dọc con phố. Gabriella thì lom khom săm soi băng ghế.
“Bob.” Sự vội vã trong tiếng gọi của cô khiến anh ta quay người lại.
“Đây này.” Cô chỉ một vệt tròn màu nâu nhỏ đọng trên tấm kính, tầm thấp,
ngang hông khi ngồi hoặc ngang đầu nếu ta nằm xuống được. Hoặc nếu ai
đó lôi ta ra khỏi băng ghế, xô xuống đất, và kề một cái súng bắn đinh vào
ngay đầu ta. “Hắn ta hành sự ngay tại đây và có thể quan sát được toàn con
phố.”