tôi đã mất hết trí khôn, họ không rõ số phận của mình rồi sẽ ra sao, cho nên
quả có béo lên thật.
Vì tôi còn giữ được đầu óc minh mẫn, chắc các vị có thể hiểu được là
không những tôi không béo lên mà còn gầy đi so với lúc trước. Cái chết luôn
luôn ám ảnh làm cho mọi thức ăn vào người tôi đều trở thành thuốc độc. Tôi
đâm ra đờ đẫn, cái chứng bệnh này đã cứu sống tôi bởi những tên da đen sau
khi đã đập chết và ăn thịt hết các bạn tôi thì ngừng lại. Thấy tôi khô khan,
gầy đét, đau yếu, chúng hoãn việc giết thịt tôi vào một dịp khác.
Trong thời gian ấy, tôi được tự do hơn. Hầu như chúng không còn chú ý
đến hành động của tôi. Nhờ vậy một hôm, tôi có cơ hội rời xa chỗ ở của bọn
da đen và tìm cách chạy trốn. Một lão già trông thấy tôi đi xa, nghi ngờ ý
định của tôi, ráng hết sức gọi tôi quay trở lại. Nhưng tôi vờ không nghe và đi
nhanh hơn, chẳng mấy chốc khuất tầm mắt nhìn của lão. Những tên da đen
khác đều đã đi vắng, thông thường đến tối chúng mới về.
Bởi vậy tin rằng là khi chúng biết tôi bỏ trốn chúng cũng không có thì giờ
đuổi theo, tôi đi một mạch cho đến tối chỉ dừng lại để nghỉ ngơi chút ít và
kịp ăn mấy miếng thức ăn mang theo, rồi lại lên đường ngay. Tôi đi liền bảy
ngày qua những nơi không có người ở. Tôi sống nhờ những quả dừa, vừa
làm thức ăn vừa làm thuốc uống.
Ngày thứ tám, tôi đến gần bờ biển, và đột nhiên trông thấy nhiều người
màu da trắng như mình. Họ đang mải mê hái hồ tiêu là loại cây mọc rất
nhiều ở vùng này. Tôi thấy việc của họ có vẻ là điềm lành, nên chẳng ngần
ngại gì mà không đến gần và tìm cách bắt chuyện. Những người hái hồ tiêu
đi về phía tôi. Vừa trông thấy tôi, họ hỏi bằng tiếng A Rập tôi là ai, từ đâu
đến. Sung sướng được nghe tiếng nói giống mình, tôi vui lòng thỏa mãn hiếu
kỳ của họ. Tôi thuật lại cho họ nghe đầu đuôi câu chuyện tôi đắm tàu và trôi
dạt đến đảo này, rồi sa vào tay bọn người da đen ra sao. Họ hỏi: “Nhưng
những tên da đen ấy ăn thịt người kia mà. Nhờ sự thần kỳ nào mà bạn thoát
được?” Tôi kể cho họ đúng như các vị vừa nghe, và họ kinh ngạc vô cùng.
Tôi ở lại với họ, chờ cho đến khi họ hái đủ số hồ tiêu cần thiết. Sau đó họ
cho cùng xuống chiếc tàu đã đưa họ đến đây, về đảo của họ. Họ giới thiệu tôi
với quốc vương họ, một nhà vua tốt. Nhà vua lắng nghe câu chuyện phiêu
lưu của tôi từ đầu đến cuối và rất lấy làm lạ. Sau đó, vua sai ban cho tôi áo
quần và truyền cho triều đình và dân chúng phải chăm sóc tôi.
Hòn đảo tôi ở rất đông dân và có nhiều sản vật. Việc buôn bán ở kinh đô
khá thịnh vượng. Nơi trú ngụ dễ chịu ấy bắt đầu an ủi niềm bất hạnh của tôi.
Lòng tốt của nhà vua hào hiệp làm cho tôi hài lòng. Quả vậy, đối với nhà
vua, thì không có ai hơn tôi. Nhờ vậy trong triều đình cũng như ngoài phố xá
không một người nào không tìm dịp để làm vui lòng tôi. Chẳng bao lâu, tôi