con tàu vẫn bị dòng nước xiết lôi vùn vụt về phía một ngọn núi cao, mà
chúng tôi nhận rõ ràng sau ngày trôi dạt thứ tám.
Quả núi ấy rất rộng, và có vẻ cao không thể nào lường. Dốc núi hiểm trở,
nhưng điều lạ lùng nhất là hình như nó bằng thép mài nhẵn thín, bởi nhìn
vào thấy sáng và bóng loáng. Một thủy thủ già thấy vậy trút một hơi thở dài
và cất tiếng than:
- Chết tất cả chúng ta rồi! Tôi nhớ có lần nghe nói đến chỗ này. Vô cùng
tai họa cho con tàu nào đến gần đây. Chừng đến sát chân núi, con tàu sẽ bị
giữ chặt lại đấy như bởi phép thần, chẳng có cách sao gỡ ra cho thoát khỏi và
trở lại ngoài khơi.
Lời người thủy thủ già khiến cả đoàn thủy thủ vô cùng buồn bã. “Ôi, ích
gì nhặt được bấy nhiêu ngọc trai, nếu tất cả đều phải bỏ mạng nơi đây!” –
“Ôi, làm sao cả đoàn thủy thủ, chẳng có lấy một ai sớm nhận thấy tai ương
này?” Tưởng sắp đi vào cõi chết, người thì than khóc, kêu tên vợ con, người
thì quỳ xuống sàn tàu, cầu xin trời cứu giúp. Tôi buồn vì cảnh tượng thương
tâm ấy hơn là lo sắp phải chết, tôi nói với thuyền trưởng:
- Thưa ngài, kêu van than thở một cách hèn nhát phỏng có ích gì? Về phần
mình, có lẽ do bản tính tôi xưa nay vốn có ít nhiều can đảm, mặt khác hình
như có thánh nhân phù trợ hay sao, thú thật tôi thấy chẳng mấy khiếp hoảng
trước tai họa sắp tới. Nếu ngài nghe lời tôi, chừng nào con tàu cập sát quả
núi, hai ta cố trèo lên tận đỉnh xem sao. Cả hai người cùng hợp sức, biết đâu
chẳng có thể tìm ra một cách gì để thoát khỏi tai ương.
Thuyền trưởng cũng hốt hoảng không kém mọi người, nghe vậy đáp vì nể
lời tôi, ông sẽ cố làm thử xem, tuy thật lòng ông không mấy tin có thể thoát
chết. Trong thời gian ấy, con tàu đã vào sát chân núi. Thuyền trưởng và tôi
xuống chiếc xuồng con, chèo vào đất liền và bắt đầu leo lên quả núi ấy. Khó
khăn vất vả hồi lâu, hai chúng tôi mới trèo lên đến ngọn.