chút do dự:
- Cho dù ông là ai đi nữa, hãy đưa ta ra khỏi chốn này, nếu ông có đủ
quyền lực làm điều ấy.
Chú chưa dứt lời, đất đã mở ra và chú thấy mình ở bên ngoài hầm ngầm,
đúng vào nơi lão phù thủy đưa chú đến hôm trước.
Thoạt tiên, mắt Alátđanh không chịu nổi ánh sáng ban ngày. Lát sau, mắt
chú mới quen dần. Nhìn ra chung quanh, chú rất ngạc nhiên thấy mặt đất
không có chỗ hở, chú không hiểu được mình từ lòng đất chui ra được bằng
lối nào. Chỉ có nhờ vào dấu cái bếp lửa đất từ hai hôm trước, chú mới mang
máng nhận ra được cái hầm đại khái ở vào chỗ nào. Sau đấy, quay đầu nhìn
lại, chú trông thấy thành phố nằm giữa các khu vườn bao bọc, và nhận ra con
đường hôm nọ lão phù thủy đã dẫn chú đến.
Chú theo con đường đó đi ngược trở lại, vừa đi vừa cảm tạ Thượng đế đã
cho mình sống lại mặc dù đã chắc mẩm chết mười mươi. Chú lần vào thành
phố, và vất vả lắm mới lê về được đến nhà. Vào được nhà mẹ đẻ, quá vui
mừng vì gặp lại mẹ, cộng thêm nỗi gần ba ngày trời không được ăn, chú ngã
lăn ngất đi một lát.
Bà mẹ tưởng chú bị lạc hay là đã chết, trông thấy con trong tình trạng ấy,
vội tìm đủ mọi cách chạy chữa cho chú hồi tỉnh. Cuối cùng, chú tỉnh lại, và
lời đầu tiên chú thốt lên là câu nói:
- Mẹ ơi, trước hết xin mẹ hãy cho con ăn, ba ngày nay con chẳng có một
miếng gì vào bụng.
Bà mẹ mang những thứ có sẵn trong nhà ra để trước mặt con và nói:
- Con ơi, chớ có vội vàng, sẽ nguy hiểm đấy, con hãy ăn từng chút một và
ăn thong thả. Trong lúc con đang đói như thế này, hãy giữ lấy hơi. Mẹ cũng
không muốn con nói chuyện ngay với mẹ nữa. Bao giờ lại sức, con sẽ tha hồ
kể cho mẹ nghe những gì đã xảy ra cho con. Trông thấy con là mẹ thỏa rồi,
sau bấy nhiêu lo âu và chạy vạy ngược xuôi để tìm con; mẹ lo lắng kể từ
hôm con ra đi khi thấy trời tối mà con vẫn không trở về.
Alátđanh nghe lời mẹ, ăn từ tốn từng ít một và uống có mức độ, ăn xong,
chú nói:
- Mẹ ạ, con rất phàn nàn sao mẹ lại nhẹ dạ giao phó con vào một tay kẻ
mang dã tâm hãm hại con, một kẻ mà, trong giờ phút con đang nói chuyện
với mẹ đây, đang cầm chắc con không còn sống nữa, hắn nhất quyết con đã
chết rồi, thậm chí đã chết ngay trong ngày đầu. Ấy thế mà mẹ lại tin hắn là
chú con, và con cũng tin như mẹ mới khổ chứ. Làm sao chúng ta có thể nghĩ
khác về một con người đã âu yếm, vỗ về con, cho con biết bao tiền của, lại
còn hứa hẹn với con đủ điều lợi lộc? Thật ra, hắn chỉ là một gã phản trắc,