ngay không chậm trễ. Một đêm vua bí mật rời hoàng cung. Ông lên ngựa
và khởi hành, mà nhất thiết không cho phép bất cứ một ai theo hầu, mặc
cho hoàng hậu Zôbêit tìm đủ lời lẽ thuyết phục vua chớ nên mạo hiểm đi
một mình. Tới Basra, vua gò cương xuống ngựa ghé vào trạm du khách
nhìn thấy trước tiên khi vừa vào thành phố. Người gác cổng là một cụ già.
Harun nói:
- Bố ơi, tôi hỏi bố nhé, có phải trong thành phố này có một chàng trai trẻ
tên là Abuncaxem, anh ta có thể vượt quá mọi đấng quân vương trên đời về
sự giàu sang và đức hào phóng?
- Đúng vậy, thưa ngài- người gác cổng đáp- cho dù già này có đến một trăm
cái miệng, và mỗi miệng có một trăm cái lưỡi, thì cũng không thể nào kể
hết những hành vi hào phóng ông ấy từng làm.
Lúc này vua Harun đang cần nghỉ ngơi, vua chỉ dùng qua mấy món nhẹ rồi
đi nằm.
Sáng hôm sau, vua dậy thật sớm, đi bách bộ trong phố cho tới khi mặt trời
mọc. Gặp một hiệu may vừa mở cửa, ông vào hỏi nhà Abuncaxem ở về lối
nào. Bác thợ may ngạc nhiên:
Ủa, ông từ xứ nào đến vậy? Hẳn ông chưa một lần tới Basra, cho nên mới
không biết dinh cơ ngài Abuncaxem toạ lạc ở đâu. Nhà riêng ông ấy còn
được dân tình biết đến nhiều hơn cả cung điện của nhà vua.
Kể đến đây bà nhũ mẫu của công chúa Farucna dừng lời bởi một nữ tì vừa
vào, cô này có nhiệm vụ đến báo công chúa biết sắp tới giờ đi cầu kinh
trưa. Hễ trông thấy tì nữ này xuất hiện là công chúa ra khỏi nhà tắm, vận lại
trang phục. Bà nhũ mẫu lúc này cũng ngừng lời, chờ đến hôm sau, khi công
chúa bước vào nhà tắm mới kể nốt câu chuyện. Tu sĩ Moclét khi chuyển
ngữ từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Ba Tư đã sắp xếp theo cung cách trên các
truyện kể trong bộ Nghìn lẻ một ngày. Dịch giả vẫn bám sát nguyên tác, tuy
nhiên xin phép được lược bớt những câu đưa đẩy trước và sau mỗi buổi
tắm, chúng tôi nghĩ như vậy sẽ đỡ làm chán người đọc; độc giả có thể coi
một mạch toàn bộ các câu chuyện mà không bị ngưng ngắt dở chừng.
Như vậy là sang ngày hôm sau, bà Xutlumêmê mới tiếp tục câu chuyện kể
dở.