nhiều đời không vì vậy mà phai nhạt. Dù nhiều khi không mong gì
quay lại, lòng họ vẫn hướng về mảnh đất quê hương: hướng về
bằng những câu chuyện thường là huyền hoặc mà họ đặt ra để ca
tụng nơi chôn rau cắt rốn của cộng đồng người.
Con người, không ngừng tiến lên, mỗi ngày mỗi hiểu thêm muôn
vật, mỗi biết rõ thêm cỏ cây và cầm thú. Sau một thời gian dài, hàng
chục vạn năm, từ đào củ, hái rau, và săn thú, cộng đồng người dần
dần chuyển sang trồng trọt và chăn nuôi. Cách kiếm ăn mới càng
đòi hỏi hiểu biết kĩ muôn vật, để sắp xếp thời gian làm việc: vãi hạt
thóc ra để mong giờ đây có gạo ăn, không phải cứ rỗi lúc nào vãi lúc
ấy, mà phải theo thời tiết từng lúc. Nghề nông buộc con người phải
trông trời, trông đất, trông mây, trông mưa trông gió, trông ngày
trông đêm, quan sát trời đất thực tỉ mỉ, để định ra lịch làm ăn từ
đầu đến cuối năm. Hiện nay, những người làm khoa học đang có hi
vọng phát hiện ra cách tính lịch thời xưa của các tập thể đã từng sinh
sống trên đất nước ta. Nghề nông còn đòi hỏi phải chống lụt
hằng năm, phải dẫn nước kịp thời vào các mảnh đất trồng trọt.
Từng nhóm nhỏ không đủ người đủ sức để đắp đê, đào mương. Các
tập thể, vốn sống lẻ tẻ, phải họp thành những tập thể lớn hơn, đông
hơn. Nghề nông không chỉ nuôi con người no đủ hơn trước, mà còn
tạo ra lương thực thừa, của cải thừa. Và điều đó không thể không gợi
lòng tham của các thủ lĩnh những người được tập thể giao cho nhiệm
vụ trông nom công việc chung. Trong tập thể, họ dựa vào uy tín sẵn có
mà tự cho mình được hưởng nhiều quyền, nhiều lợi, thậm chí còn
bắt kẻ khác làm cho mình hưởng. Họ lôi kéo mọi người đi đánh nhau
với các tập thể khác để cướp lương thực và của cải. Cứ mỗi lần đánh
thắng tập thể khác, bắt tập thể thua trận phải phục tùng mình, là
mỗi lần khu vực của tập thể thắng trận được mở rộng: không gian
của họ to rộng mãi lên, theo đà của những cuộc đánh nhau giữa các tập
thể. Và theo đà của các cuộc trao đổi kinh tế và văn hoá.