một chính trị gia tố giác này kia. Nó cũng được lên trang nhất, nhưng dòng
tít không to bằng: “Cửa hàng tạp hóa bị phạt hành chính, không có nạn
nhân ngộ độc thực phẩm.”
Tấm hình chụp Jacob trên bàn ăn sáng của chúng tôi khiến tôi hết sức
phiền lòng.
Tôi bảo chồng rằng tối nay chúng tôi cần nói chuyện.
“Chúng ta có thể gửi bọn trẻ cho bà nội rồi đi ăn tối ở đâu đó, chỉ có hai
ta thôi,” anh bảo. “Anh cũng đang cần thêm chút thời gian bên em, chỉ hai
ta và không có tiếng nhạc ồn ào kinh khủng kia. Làm sao người ta có thể
thích thể loại đó được nhỉ?”
* * *
Hôm ấy là buổi sáng mùa xuân.
Tôi đang ngồi nơi góc công viên vắng vẻ, ngắm nhìn những viên đá ốp
tường quanh trường học. Tôi biết trong tôi có gì đó không ổn.
Những đứa trẻ khác đều nghĩ tôi “hơn chúng,” và tôi chưa bao giờ cố
chối bỏ điều này. Ngược lại là đằng khác! Tôi đòi mẹ mua cho quần áo đắt
tiền và dùng xe ngoại đưa đi học.
Nhưng hôm đó ở trong công viên, tôi nhận ra mình cô độc, và có thể vẫn
cô độc suốt phần đời còn lại. Dù tôi chỉ mới lên tám, dường như đã quá
muộn để thay đổi và chứng minh cho những đứa trẻ khác là tôi cũng như
chúng thôi.
Bấy giờ là mùa hè.
Tôi học cấp hai, và bọn con trai cứ tìm cách xoắn lấy tôi, dù tôi cố tránh
né chúng. Bọn con gái thì ghen tị chết đi được, nhưng cứ vờ như không và
luôn quanh quẩn muốn làm thân với tôi, hy vọng sẽ được hưởng sái khoản
bạn trai.