Buổi lễ bắt đầu. Tôi đọc kinh, khấn vái, xin phép thần Phật, Hà Bá con
sông này rủ lòng thương xót, hoa tàn trôi nổi, đưa lối cho về.
Khấn vái xong, tôi hướng dẫn người nhà thả chim, thả cá xuống sông rồi
chuẩn bị gọi hồn.
Tôi nắm đĩa xin quẻ. Xin ba lần quẻ đều không tốt. Lòng tôi lo lắng.
Không biết các Ngài có nhận được lễ không, lễ có tới được tay vong hồn
anh Lăng không.
Gia đình anh Lăng ngồi quây tròn trên tấm bạt xanh trải bên bờ sông. Tôi
cầm cành liễu xin được, vẫn còn ngát lộc, vẩy nước thánh quanh vòng
người rồi bắt đầu chiêu hồn.
Tôi cố gắng mở cửa âm để mời hồn về, tay cầm sẵn một chiếc chuông
nhỏ treo. Hồn về chuông sẽ rung lên và tôi sẽ nhìn thấy luồng khí trong
chốc lát.
Thế nhưng qua vài đợt khấn, vài lần chờ đợi, vẫn không có gì biến
chuyển, chiếc chuông im ắng như ngày lặng gió, dù ngoài sông gió vẫn rít
ầm ầm. Chuông chỉ kêu to khi có luồng âm khí mạnh.
Gọi hồn thất bại. Vậy tức là vong hồn vẫn bị kẹt ở đâu đó không được
phép về nhà. Tôi chợt nhớ tới bài thơ cô gái đọc đêm qua, lòng thấy bất an.
Tôi đành cáo lỗi với gia quyến. Điều quan trọng là phải tìm được xác
người mất về, gia đình giờ cũng chỉ đề cao chuyện đó.
Cách đây rất lâu, tôi đã được truyền thụ một loại bùa cổ Trung Hoa có
thể miêu tả những thứ cần tìm thông qua một hình thức lý giải phức tạp.
Đầu tiên cần một loại chè được hái khi vừa trổ, cho vào hũ chôn xuống đất
đủ 100 ngày. Lấy lên và sắc bằng ấm sứ trắng nung mộc. Nước ngâm phải
là nguồn nước kề cận nhất với vật mình cần tìm kiếm trước khi mất. Sau
khi làm xong, bã trà tự nhiên sẽ cho ta câu trả lời. Cách lí giải rất khó
nhưng chỉ cần lần đúng mạch, gần như chắc chắn sẽ tìm được. Vừa hay tôi
có mang một chút lá chè khô này, dù sao cũng phải thử.