lại mướt mải chèo về. Chèo về đến gần cây cầu vào làng thì tôi thấy một
thứ nhấp nhô vẫy vùng trong dòng nước. Bóng người đó cứ nổi rồi lại chìm
xuống, cánh tay giơ thẳng lên trời vẫy vẫy tôi mong được cứu. Tôi nhìn
cảnh đó thì cuống lắm, cái máu cứu người của tôi lại nổi lên. Thế là tôi
chèo hết sức để kịp cứu người đó. Cứu người mà, chỉ cần chậm một tí thôi
là không kịp nữa. Thế nhưng càng lại gần tôi lại càng thấy có sự lạ…”
“Lạ như nào cơ ạ?”
Ông Mười nói tiếp:
“Bóng người đó nhấp nhô lên xuống theo một nhịp cố định. Và sự thật
đập vào mắt làm tôi ám ảnh đến giờ. Đến gần chỗ người đó, tôi phát hiện ra
đấy là một cái xác, chứ không phải là người… Cái xác đó mở mắt trừng
trừng, trông như vẻ là bất ngờ bị chết ấy, chứ không phải là nhảy tự vẫn hay
gì… Tôi sợ lắm nhưng vẫn lấy gậy lưới ra quây vào, rồi định buộc theo
thuyền kéo về. Cái xác người này rơi vào xoáy nước cứ lên cao rồi xuống
thấp nên mới tạo cảm giác nhấp nhô vậy… Thế rồi tôi mắc vào tay kéo cái
xác ra thì…”
Ông Mười nhắm mắt lại như hồi tưởng một ký ức đen tối.
“Cái xác chỉ có nửa thân trên thôi, ruột gan trương phềnh lòi hết ra
ngoài. Nhìn cảnh đó tôi buồn nôn khủng khiếp nhưng vẫn phải làm. Điều
kinh dị nhất là… rõ ràng ở xa… tôi thấy… cái xác đó có vẫy tay với tôi
mọi người ạ… Vẫy tay lại gần ấy… Tôi sởn hết cả da gà…”
Câu chuyện miên man của ông Mười làm tôi nghĩ vẩn vơ rồi lim dim lúc
nào không biết. Tôi cần phải tỉnh táo để nhìn đường sông hai bên. Thuyền
đã đi được cả mấy chục phút rồi.
Chúng tôi rẽ vào từng con lạch nhỏ, từng nhánh nước của con sông, thế
nhưng đi qua nhiều lạch nước tôi vẫn không thấy nơi đâu giống địa thế của
bã trà, có các bãi đá rải rác và gần một căn nhà nhỏ. Lang thang lùng sục
trên con sông gần hết cả ngày, chỉ ăn vội quýnh quáng vài miếng bánh mì
mang theo, ai nấy đều mệt lử, thế nhưng chúng tôi không muốn bỏ cuộc.