nào ta sẽ trao cho con đây? Đây hẳn phải là một ngày vui của con chứ đâu
phải ngày hạ bệ con.”
“Niềm vui sẽ khoác bộ y phục do Nỗi buồn làm nên sao?” vị vua trẻ
đáp. Rồi chàng kể cho đức Giám mục nghe về ba giấc mơ.
Vị Giám mục nghe xong, nhíu đôi mày nói, “Con ơi, ta nay đã già rồi,
và với những ngày tháng lạnh lẽo của đời mình, ta đã chứng kiến bao nhiêu
điều tàn ác trong cái thế giới rộng lớn này. Những tên cướp ác độc tràn từ
núi xuống, bắt cóc trẻ em đem bán sang Marốc. Bầy sư tử rình rập các đoàn
lữ hành để vồ lấy những con lạc đà. Lũ lợn rừng dày xéo mùa màng trong
thung lũng, cầy cáo cắn xé những đồi nho. Hải tặc hủy hoại bờ biển, đốt phá
tàu bè ngư dân, cướp cả lưới đánh cá. Những người hủi sống ở đầm lầy, lấy
lau sậy làm nhà và chẳng ai đến gần họ. Những kẻ hành khất lang thang mọi
nơi, ăn cả đồ của chó. Con có ngăn được chúng không? Con có dám ngủ
chung giường với người hủi và ăn cùng bàn với ăn mày không? Liệu sư tử
có tuân lệnh và lợn rừng có phục tùng con chăng? Chẳng phải Đấng tạo ra
bất hạnh này khôn ngoan hơn con sao? Vậy nên ta không thể tán thành
những việc con đã làm, ta mong con hãy quay lại hoàng cung với khuôn mặt
tươi tỉnh, khoác vào bộ long bào, cùng với chiếc vương miện bằng vàng ta
sẽ đội cho con và cây quyền trượng gắn ngọc trai ta sẽ trao cho con. Những
giấc mơ kia, đừng nghĩ về chúng nữa. Gánh nặng thế gian quá lớn cho một
bờ vai, và u buồn của thế gian quá sức chịu đựng cho một trái tim.”
“Cha nói vậy trong giáo đường ư?” vị vua trẻ nói, rồi chàng lách qua
đức Giám mục, bước lên ban thờ, đứng trước tượng Chúa.
Chàng đứng trước tượng Chúa, bên tay phải và tay trái là những chiếc
bình bằng vàng, những ly chứa rượu vang vàng óng, những chai đựng dầu
thánh. Chàng quỳ trước tượng Chúa, những cây nến lớn bừng sáng chiếu lên
giáo đường nạm đầy đá quý, cuộn những vòng khói lam mỏng mảnh lên mái
vòm. Chàng cúi đầu cầu nguyện, mấy vị thầy tu sợ cứng người, vội lủi khỏi
ban thờ.