khác. Chú sẽ đem cho cô chiếc cốc bằng hạt sồi, những cây cỏ chân ngỗng
ướt đẫm sương, và những con đom đóm bé xíu cài lên mái tóc vàng của cô
làm những vì sao.
Nhưng công chúa đang ở đâu? Chú hỏi bông hồng trắng, hoa không
đáp lời. Cả cung điện dường như đang chìm trong giấc ngủ, cả những cánh
cửa chớp cũng không ai đóng lại, các tấm rèm nặng nề đã được kéo lại để
che ánh nắng chói chiếu qua cửa sổ. Chú đi lòng vòng xung quanh để tìm
một lối vào, và cuối cùng chú bắt gặp một cánh cửa nhỏ đang để ngỏ. Chú
lướt qua và thấy mình đang đứng trong một đại sảnh tráng lệ, tráng lệ hơn cả
khu rừng, chú nghĩ vậy, sơn son thiếp vàng khắp mọi nơi, thậm chí sàn nhà
cũng lát bằng đá màu sặc sỡ, ghép lại với nhau thành một loại hoa văn hình
học. Nhưng cô công chúa nhỏ không có đó, chỉ thấy mấy pho tượng màu
trắng đẹp đẽ trên bệ ngọc nhìn xuống chú bằng đôi mắt trắng buồn bã và nụ
cười lạ lùng.
Phía cuối sảnh treo một bức màn thêu bằng nhung đen quý giá, tô điểm
bằng hình mặt trời và mặt trăng, những thứ yêu thích của nhà vua, và thêu
bằng màu ngài thích nhất. Công chúa nấp sau đó chăng? Chú sẽ thử xem
sao.
Chú rón rén tiến tới, kéo tấm màn ra. Không, đó là một căn phòng
khác, một căn phòng đẹp hơn chỗ mình vừa bước qua, chú nghĩ vậy. Trên
tường treo những tấm thảm xanh sặc sỡ, diễn tả một cuộc săn bắn – một
công trình mà các nghệ sĩ người Hà Lan đã dành bảy năm để sáng tạo ra. Có
một thời, căn phòng này thuộc về ông vua điên Jean, như người ta thường
gọi vậy, vị vua điên này say mê săn bắn tới mức khi trong cơn say máu, ông
vừa cố gắng nhảy lên con ngựa đang lồng lên dữ dội, vừa giật xuống con
hươu mà lũ chó săn đang nhảy bổ vào, miệng thổi vang chiếc kèn săn, và
thọc thanh đao vào mình con hươu khác đang phóng như bay. Giờ căn
phòng này được dùng làm phòng họp, trên chiếc bàn trung tâm có đặt những
chiếc cặp tài liệu màu đỏ của quan đại thần, đóng dấu hoa tulip Tây Ban Nha
bằng vàng, cùng các vũ khí và gia huy dòng họ Habsburg.