chúng ra và lấy nước uống. Rồi chúng tôi trải thảm ra và nằm chờ bình minh
lên.
Bình minh lên, chúng tôi trở dậy và đến gõ cổng thành. Đó là cánh
cổng bằng đồng có chạm hình rồng và rồng biển với đôi cánh bên mình.
Người gác cổng nhìn xuống các chiến binh và hỏi đến có việc gì. Thông
ngôn của chúng tôi đáp chúng tôi đến từ những hòn đảo ở Syria với rất
nhiều hàng hóa. Họ tin vậy và bảo rằng cổng thành sẽ mở vào buổi trưa và
kêu chúng tôi ráng chờ tới lúc đó.
Trưa hôm đó cổng thành mở, chúng tôi tiến vào và mọi người ùa ra
khỏi nhà nhìn ngắm chúng tôi, một người rao tin đi vòng quanh thành thông
báo bằng tù và. Chúng tôi đến khu chợ, những người nô lệ da đen gỡ xuống
các súc vải và mở ra các rương đồ bằng gỗ dâu. Khi họ làm xong việc rồi,
các thương gia mới bày la liệt các món hàng kì lạ, vải lanh xứ Ai Cập, vải
màu của đất nước Ethiop, những miếng bọt biển tím xứ Tyre và thảm treo
tường màu xanh của Sidon, những chiếc cốc bằng hổ phách, những chai lọ
thủy tinh đẹp đẽ cùng những chiếc bình lạ mắt bằng đất nung. Trên mái nhà,
một đám phụ nữ cũng đứng nhìn chúng tôi. Một trong số họ đeo mặt nạ
bằng da mạ vàng.
Ngày đầu tiên, các tu sĩ đến chỗ chúng tôi và mua bán, ngày thứ hai là
giới quý tộc, còn ngày thứ ba là thợ thuyền và nô lệ. Đó là tập tục xứ này
chừng nào các thương nhân còn nán lại trong thành.
Chúng tôi lưu lại đó một tuần trăng, một hôm trăng mờ khuyết, tôi cũng
thấm mệt và đi lang thang các phố trong thành, đến khu vườn của Thượng
đế xứ họ. Các tu sĩ trong chiếc áo choàng màu vàng lặng lẽ đi lại giữa các
hàng cây xanh, trên những con đường lát đá cẩm thạch đen mọc lên một
ngôi nhà đỏ thắm, nơi thờ phụng Thượng đế của họ. Cánh cửa sơn màu,
khắc nổi hình con bò và chim công mạ vàng sáng loáng. Mái nhà lợp bằng
sứ xanh như màu biển, góc mái cong vút và được gắn những chiếc phong
linh. Khi mấy con chim câu trắng bay qua, cánh chúng chạm vào phong linh
phát ra những tiếng leng keng.