“Như vụ hai con chó chow chow kia chẳng hạn,” Harry nói rồi khẽ khàng
khép cửa lại sau lưng.
Harry đứng ở lối vào, lặng lẽ quan sát phòng làm việc chung của anh. Đối
diện bàn anh là chiếc bàn trống đã được dọn dẹp ngăn nắp trong thời gian
nghỉ phép của Halvorsen. Bức tường phía trên tủ hồ sơ có treo ảnh sĩ quan
Ellen Gjelten chụp hồi cô còn ngồi ở chỗ của Halvorsen bây giờ. Bức tường
còn lại bị tấm bản đồ đường phố Oslo choán gần hết. Rải rác trên đó là
những chiếc đinh mũ, đường kẻ và các mốc thời gian đánh dấu vị trí của
Ellen, Sverre Olsen và Roy Kvinsvik vào thời điểm xảy ra án mạng. Harry
bước tới chỗ bức tường và đứng trước tấm bản đồ. Thế rồi, bằng một động
tác nhanh nhẹn, anh xé tan và tống nó vào một ngăn kéo tủ hồ sơ. Anh lấy từ
trong túi áo khoác ra bình rượu bạc loại giắt ở thắt lưng, tu vội một hơi rồi tì
trán lên mặt tủ bằng kim loại mát lạnh.
Anh đã làm việc suốt hơn mười năm qua trong chính văn phòng này. Căn
phòng 605. Phòng nhỏ nhất trong khu vực cấm trên tầng sáu. Ngay cả hồi họ
nảy ra ý định kỳ quặc là thăng chức cho anh lên làm thanh tra thám tử, anh
vẫn nhất quyết đòi ở lại chỗ này. Phòng 605 tuy không có bất kỳ cửa sổ nào,
nhưng chính từ nơi đây anh đã ngồi quan sát cả thế giới. Với vỏn vẹn chỉ
mười mét vuông này, anh đã kiên trì học hỏi, ăn mừng thắng lợi, gặm nhấm
thất bại và đúc kết được đôi điều sâu sắc về tâm trí con người. Anh cố nhớ
xem mình còn làm được những việc nào khác trong mười năm qua không.
Chắc chắn phải có điều gì đáng nhớ chứ. Ngày nào mi chẳng ở đây làm việc
từ tám đến mười tiếng đồng hồ. Tối đa là mười hai tiếng. Chưa kể vào
những dịp cuối tuần.
Harry ngồi phịch xuống chiếc ghế tàn tạ của mình, khiến cái lò xo hỏng ré
lên trong niềm hân hoan. Anh hoàn toàn có thể vui vẻ ngồi lì ở đây thêm hai
tuần nữa.