“Cảnh sát đây,” anh nói, xốc lại tinh thần để chuẩn bị chinh phục dãy cầu
thang.
Một bóng người trông thật kỳ dị đã chờ sẵn ở ngưỡng cửa tầng trên cùng
khi Harry leo lên đến nơi, thở không ra hơi. Ông ta có mái tóc to bù xù, bộ
râu quai nón đen sì ngự trên gương mặt đỏ tía, mặc trang phục kiểu tunic che
kín từ cổ tới tận đôi bàn chân đi xăng đan.
“Thật tốt khi anh đến nhanh vậy,” ông ta nói và chìa bàn tay hộ pháp ra.
Cách ví von ấy quả thực không sai chút nào, vì tay Harry đã lọt thỏm và
hoàn toàn mất hút trong đó khi ông ta xưng tên mình là Wilhelm Barli.
Harry giới thiệu tên và cố rút tay về. Anh không thích tiếp xúc với đàn
ông, mà hành vi bắt tay này đúng hơn phải liệt vào loại ôm ấp. Vậy nhưng
Wilhelm vẫn cứ bám chặt lấy anh như người chết đuối vớ được cọc.
“Lisbeth đi rồi,” ông ta khẽ nói. Giọng nói rõ ràng đến không ngờ.
“Vâng, chúng tôi đã nhận được tin báo. Ta vào trong chứ?”
“Vâng, mời anh.”
Wilhelm đi trước Harry. Tuy cùng là căn hộ trên tầng áp mái, nhưng căn
hộ của Camilla Loen nhỏ và được bài trí theo phong cách tối giản tuyệt đối,
còn căn hộ này lại rộng rãi với những đồ nội thất rườm rà, cầu kỳ như sản
phẩm ăn theo trường phái tân cổ điển. Chỉ có điều, cách bài trí ấy lại bị làm
quá tới mức gần như biến nơi đây thành phông nền cho một bữa tiệc toga.
Thay vì các loại sofa và ghế thông thường, chủ nhà lại sử dụng ghế ngả
thường thấy trong các bộ phim Hollywood về thời La Mã cổ đại, những cột
chống bằng gỗ được ốp thạch cao để tạo thành thức cột Doric hoặc Corinth.
Harry chẳng bao giờ phân biệt nổi sự khác nhau giữa hai thức cột ấy, nhưng
anh nhận ra tấm phù điêu thạch cao được gắn trực tiếp lên bức tường sơn
trắng ngoài hành lang. Mẹ anh từng dẫn anh và Sis tới thăm bảo tàng ở
Copenhagen hồi anh còn nhỏ, tại đó họ đã được chiêm ngưỡng bức tượng
Jason và Bộ lông cừu vàng của Bertel Thorvaldsen. Căn hộ này rõ ràng vừa
mới được tu sửa. Harry để ý thấy lớp sơn trên đồ gỗ vẫn còn mới, mấy vết
băng keo giấy vương lại và có thể ngửi thấy cả mùi dung môi thơm nức.