chú lãnh đạo, mấy chú vò đầu, vuốt tóc, khen trẻ mà giỏi, ráng lên để thay
mấy chú chớ con. Ngay ngất lắm, về nhà không muốn gội đầu, sợ dấu phai
đi. Tất cả là phù phiếm. Người ta không còn yêu mặt trăng nữa thì biết trên
ấy chỉ còn sỏi đá, không sự sống. Tôi cứ khinh khỉnh nhìn mấy tên phóng
viên mới vô nghề, gặp ở quán cà phê nào cũng thì thầm với nhau, ông Bảy
tiêu rồi, ông Chín cũng tiêu... bằng một nỗi đau đớn mà tôi cho là khờ dại.
Ba tôi ở lại với tôi một ngày. Buổi tối, tôi rủ ba tôi nhậu. Hai ba con
thôi. Ở đây hay về quê cũng vậy, hai ba con tôi thường ngồi lại vơi nhau.
Để coi, lần tôi về quê cũng lâu lắm rồi, đợt đó xóm kéo điện về. Cái xóm
nhỏ oai hùng, cái xóm nhỏ nghèo quê tôi hai mưới sáu năm giải phóng
người ta thấy được ánh điện đầu tiên trong đời. Người già Xóm Xẻo uống
trà quạu thức sáng đêm nhìn bóng đèn cho đã con mắt. Con trai con gái
xóm rủ nhau chèo thuyền ra ngoài đầm nhìn vô xóm sáng choang, coi
giống ngoài thị xã không, rồi chèo trở lại, thương nhau lâu lắm mà bây giờ
mới dám nói. Cái ánh sáng làm cho người ta tự tin lên. Còn tụi con nít bị
đánh quắn đít tưởng đâu vẫn còn ban ngày. Ba tôi ngồi nhăm nhi với tôi,
mồi là niềm vui khôn tả, nên uống hoài không thấy say.
Tối nay lại khác, trông ông buồn rũ. Nói qua nói lại một hồi quay về
ngay ông Tư Đờ.
- Tao nhớ coi, hồi Tết năm nào nè, Tư Đờ có về nhà mình.
- Vậy sao ba?
- Ừ, nó nói cha sống như vậy mà khỏe hơn tui. Chưa bao giờ tui sống
một ngày yên bình. Giặc bây giờ nằm tứ phía. Tụi nó giết mình ngọt ngào
mà mình không hay. Bây giờ tụi nó bắn tôi băng đạn đường không hà.
Ngấm đạn rồi mới hay. Đau lắm. Cực lắm.
- Ổng nói vậy cho mát lòng ba chứ cực nỗi gì. Ổng đi nước ngoài như
cơm bữa. Ở nhà máy lạnh, ra đường đi xe máy lạnh, đi nhậu cũng nhà hàng